Tạp chí Kế toán & Kiểm toán

Đo lường tính thanh khoản của doanh nghiệp

Tiêu đề Đo lường tính thanh khoản của doanh nghiệp Ngày đăng 2014-11-20
Tác giả Admin Lượt xem 2635

Trong quan hệ
thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp (DN) đều có xu hướng thực hiện việc tài trợ
vốn thông qua vay nợ ngắn hạn. Vấn đề đặt ra là liệu DN có khả năng thanh toán và
thanh toán đúng hạn các khoản nợ? Đây là câu hỏi, không chỉ bản thân DN mà các ngân
hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư, … cũng rất quan tâm. Để trả lời câu hỏi trên thì
phải đo lường tính thanh khoản của DN. Các DN chủ yếu sử dụng tỷ số thanh toán để
đo lường tính thanh khoản. Tuy nhiên, mỗi tỷ số đều có những ưu và nhược điểm riêng
trong việc đo lường tính thanh khoản. Tập trung phân tích những nhược điểm, hạn
chế của các tỷ số thanh toán hiện hành.

Thứ nhất, tỷ số thanh toán hiện hành. Thể hiện mối quan hệ giữa
toàn bộ tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp và được tính như sau:

Khh = Tài sản
ngắn hạn/Nợ ngắn hạn

Về mặt lý thuyết, nếu tỷ số thanh toán hiện thời càng
cao thì khả năng thanh toán của DN càng tốt. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi lúc hàng
tồn kho của DN lớn, tỷ số thanh toán hiện thời cao nhưng chưa chắc tính thanh khoản
của DN tốt. Nếu như, trong điều kiện thị trường có những biến động xấu, hàng tồn
kho bị ứ đọng, kém phẩm chất làm cho hàng tồn kho khó hoán chuyển thành tiền. Lúc
này, DN khó có thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Mặc dù, tỷ số thanh toán
hiện thời cao. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện thời không
phản ánh chính xác khả năng thanh toán của DN.

Thứ hai, tỷ số khả năng thanh toán nhanh, tương tự như khả năng
thanh toán hiện hành nhưng tỷ số này loại bỏ phần tài sản tồn kho trên tử số. Vì
đó là, bộ phận phải dự trữ thường xuyên cho kinh doanh mà giá trị của nó và thời
gian hoán chuyển thành tiền không chắc chắn. Cụ thể, tỷ số này được tính như sau:

Knhanh = (TSNH
– Hàng tồn kho)/Nợ ngắn hạn =  (Tiền + ĐTNH
+ Nợ phải thu)/Nợ ngắn hạn

Theo công thức trên, ta thấy trong tài sản ngắn hạn được
dùng để thanh toán nợ ngắn hạn của tỷ số thanh toán nhanh bao gồm các khoản nợ phải
thu nhưng không phải lúc nào DN cũng có thể thu hồi được và thu hồi đúng hạn các
khoản phải thu này. Khi đó, tỷ số khả năng thanh toán hiện hành sẽ không phản ánh
chính xác khả năng thanh toán của DN.

Hạn chế của hai chỉ tiêu này là dựa trên khái niệm thanh
lý toàn bộ tài sản ngắn hạn của công ty kể cả những tài sản khó hoán chuyển thành
tiền để đáp ứng tất cả các khoản nợ ngắn hạn. Trong thực tế, điều này không thể
xảy ra, vì một DN cần phải được nhìn nhận như một thực thể hoạt động liên tục. Ví
dụ sau đây, sẽ minh họa cho sự hạn chế của việc sử dụng hai tỷ số thanh toán trên
trong việc đo lường tính thanh khoản của DN, giả sử có số liệu của hai DN A và B
như bảng 1.

Bảng 1

Chỉ tiêu

DN A

DN B

1. Tài sản ngắn hạn

1.500.000.000đ

1.000.000.000đ

Trong đó: a. Hàng tồn kho

800.000.000đ

400.000.000đ

                 b. Nợ phải thu

600.000.000đ

350.000.000đ

2. Nợ ngắn hạn

350.000.000đ

350.000.000đ

3. Giá vốn hàng bán trung bình
ngày

5.000.000đ

5.000.000đ

4. Doanh thu trung bình ngày

7.000.000đ

7.000.000đ

5. Tỷ số thanh toán hiện hành:
(5) = (1)/(2)

4,29

2,86

6. Tỷ số thanh toán nhanh:
(6) = ((1)  (a))/(2)

2,00

1,71

7. Kỳ chuyển đổi hàng tồn kho:
(7) = (a)/(3)

160 ngày

80 ngày

8. Kỳ thu tiền khách hàng:
(8) = (b)/(4)

86 ngày

50 ngày

9. Kỳ thanh toán cho nhà cung
cấp (9) = (2)/(3)

70 ngày

70 ngày

Dựa vào số liệu trên cho thấy, DN A có tỷ số thanh toán
hiện hành là 4,29 và tỷ số thanh toán nhanh là 2,00.
Trong khi đó, DN B có tỷ số thanh
toán hiện hành là 2,86 và tỷ số thanh toán nhanh là 1,71. Như vậy, nếu chỉ dựa vào
khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán nhanh thì khả năng thanh toán
của DN A là tốt hơn DN B. Nhưng đi sâu phân tích chúng, ta thấy: DN A cần 86 ngày,
để thu hồi các khoản phải thu và mất 160 ngày, để hàng tồn kho quay hết 1 vòng.
DN B cần 50 ngày, để thu hồi các khoản phải thu và mất 80 ngày, hàng tồn kho quay
hết 1 vòng.

Như vậy, trong ví dụ trên
DN A là rất kém thanh khoản. Mặc dù, tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh toán
nhanh rất cao. Vì các khoản nợ phải trả của DN A đến nhanh hơn so với tốc độ chuyển
đổi hàng tồn kho và các khoản phải thu sang tiền mặt. Trong khi đó, DN A không thể
thanh toán các khoản nợ phải trả đến hạn mà không phải bằng tiền mặt. Lúc này, DN
B có thanh khoản tốt hơn DN A vì quá trình chuyển đổi của hàng tồn kho và nợ phải
thu nhanh hơn.

Thứ ba, tỷ số khả năng thanh toán tức thời: Đây là tỷ số thể hiện
mối quan hệ giữa tiền và tương đương tiền so với nợ ngắn hạn:

Ktt = Vốn bằng tiền / Nợ ngắn hạn

Tỷ số này, trên tử số loại
bỏ hàng tồn kho và các khoản phải thu vì hai khoản này không có sự đảm bảo rằng,
có thể chuyển đổi nhanh bằng tiền mặt để kịp thời đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên, rất ít DN sẽ có đủ tiền mặt và các khoản tương đương tiền để trang trải
đầy đủ và kịp thời các khoản nợ ngắn hạn. Vì nếu một DN giữ một lượng vốn bằng tiền
quá lớn thì điều này sẽ làm cho hiệu quả sử dụng tài sản sẽ thấp. Vì vậy, việc sử
dụng khả năng thanh toán tức thời để đánh giá tính thanh khoản của DN cũng có lúc
không chính xác. Mặc dù, những DN có lượng tiền và tương đương tiền thấp (khả năng
thanh toán tức thời thấp), nhưng nếu số vòng quay hàng tồn kho và số vòng quay phải
thu nhanh thì tính thanh khoản của DN sẽ tốt.

Nhận xét, việc sử dụng ba
tỷ số thanh toán nêu trên trong việc đo lường tính thanh khoản có những hạn chế
nhất định. Chưa đủ để đánh giá, tính thanh khoản của DN và nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế đó là do cả ba tỷ số trên chỉ được xem xét trong trạng thái tĩnh. Vì vậy,
để khắc phục được những hạn chế trên cần có một cái nhìn đầy đủ, tương đối đúng
về tính thanh khoản của một DN thì ngoài ba tỷ số trên, DN có thể vận dụng chỉ số
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (Cash Conversion Cycle-CCC). Đây là chỉ số được Verlyn
Richards và Eugene Laughlin giới thiệu vào năm 1980 trong bài viết “ Một sự tiếp
cận chu kỳ chuyển đổi tiền mặt để phân tích tính thanh khoản”. Nói cách khác, chu
kỳ chuyển đổi tiền mặt phản ánh độ dài của thời gian mà một DN bán hàng tồn kho,
thu các khoản phải thu và trả các khoản phải trả của mình. Chu kỳ chuyển đổi tiền
mặt được tính theo công thức sau:

CCC = ICP + RCP – PDP

Trong đó:

– ICP là kỳ chuyển đổi hàng
tồn kho (Inventory Conversion Pẻiod): Chỉ tiêu này phản ánh số ngày của một vòng
quay hàng tồn kho và được tính như sau:

ICP = Giá trị hàng tồn kho
bình quân/Giá vốn hàng bán trung bình ngày

– RCP là kỳ thu tiền khách
hàng (Receivable Conversion Period): Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân của
một chu kỳ nợ, từ khi bán hàng đến khi thu tiền và được tính như sau:

RCP = Số dư bình quân nợ phải thu/Doanh thu trung bình ngày

– PDP là kỳ thanh toán cho
nhà cung cấp (Payable Deferral Period): Chỉ tiêu này phản ánh số ngày DN cần để
thanh toán các khoản phải trả của mình và được tính như sau:

PDP = Số dư bình quân nợ
phải trả/Giá vốn hàng bán trung bình ngày

Từ công thức tính CCC, ta
thấy chỉ tiêu này càng thấp sẽ rút ngắn chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, giảm lượng vốn
lưu động bị ứ đọng. Từ đó giảm nhu cầu về vốn lưu động, nâng cao hiệu quả hoạt động,
tăng tính thanh khoản cho DN.

Ví dụ trên, chu kỳ chuyển
đổi tiền mặt của DN A và B  lần lượt được
tính như sau:

CCCA = ICPA + RCPA – PDPA
= 160 + 86 – 70 = 176 (ngày)

CCCB = ICPB + RCPB – PDPB
= 80 + 50 – 70 = 60 (ngày)

Dựa vào kết quả tính toán
trên, ta thấy chu kỳ chuyển đổi tiền mặt của DN B (60 ngày) ngắn hơn DN A (176 ngày),
tức là tính thanh khoản của DN B tốt hơn DN A./.

Tài liệu tham
khảo

1) PGS.TS. Trần Ngọc Thơ (2007), Tài chính DN hiện đại, Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

2) GS.TS. Trương Bá Thanh, PGS.TS. Trần Đình Khôi Nguyên
(2007), Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, Đại học Đà Nẵng, trường Đại học
Kinh tế.

3) Verlyn D.
Richard and Eugene J. Laughlin (1980), “ A Cash Conversion Cycle Approach to Liquidity
Analysis”, Financial Management, 9, pp. 32-38.

Ths. Bùi Văn Lâm*

Khoa Kế toán – Kiểm toán, Đại học Tài chính
– Kế toán (Quảng Ngãi)
Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán – VAA

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *