Sự kiện AFA 24

Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự tự nguyện áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

Tiêu đề Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự tự nguyện áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) Ngày đăng 2025-09-30
Tác giả Admin Lượt xem 36

Việc lựa chọn áp dụng IFRS mang lại nhiều lợi ích đáng kể, như cải thiện chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC), tăng khả năng cạnh tranh, hội nhập quốc tế và cải thiện hiệu suất kinh doanh.

https://tapchiketoankiemtoan.vn/nghien-cuu-nhan-to-anh-huong-den-su-tu-nguyen-ap-dung-chuan-muc-bao-cao-tai-chinh-quoc-te-ifrs-d4881.html

1. Giới thiệu

IFRS là Chuẩn mực trình bày BCTC quốc tế do IASB xây dựng. Áp dụng IFRS thể hiện một bước hướng đến hài hòa và hội tụ kế toán quốc tế, được khuyến khích bởi vì chuẩn mực này mang đến nhiều lợi ích như: giúp cải thiện chất lượng và khả năng so sánh quốc tế của BCTC (Brown & Tarca, 2005; Navarro-García & Bastida, 2010); tăng tính thanh khoản và hiệu quả của thị trường vốn (Daske et al., 2008; DeFond et al., 2011). Ngoài ra, các nghiên cứu còn cho rằng, áp dụng IFRS thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút nhà đầu từ nước ngoài, tăng cường hội nhập thị trường tài chính toàn cầu (Cai & Wong, 2010; Oppong & Aga, 2019).

Xuất phát từ lợi ích của việc áp dụng IFRS, trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu về áp dụng tự nguyện IFRS được thực hiện ở các nước trên thế giới với những kết quả khá đa dạng. Do đó, mục tiêu của bài báo là tổng quan một cách có hệ thống các nghiên cứu đã công bố về tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS nhằm cung cấp những đánh giá về các nghiên cứu của chủ đề này và mở ra các hướng nghiên cứu mới cần thiết trong tương lai. Bài viết được kết cấu gồm bốn phần: Giới thiệu, Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam, Đánh giá các nghiên cứu đã thực hiện và Cung cấp các khuyến nghị cần thiết cho hướng nghiên cứu sau này.

2. Tổng quan các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến sự tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS

Có thể được chia thành bốn nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến sự tự nguyện và sự sẵn sàng áp dụng IFRS ở góc độ của DN: Đặc điểm của DN, Cơ cấu vốn, Hoạt động quốc tế hóa và Quản trị DN.

2.1. Đặc điểm hoạt động của DN, cơ cấu vốn

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc tự nguyện hay sẵn sàng áp dụng IFRS bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố thuộc về đặc điểm hoạt động của công ty, cấu trúc vốn như: quy mô, tuổi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh, hình thức pháp lý, tình trạng niêm yết, đòn bẩy, khả năng sinh lời,… tại Bảng 1.

Quy mô là các yếu tố quyết định việc áp dụng IFRS tự nguyện của các DN trong hầu hết nghiên cứu (Guerreiro et al., 2008, André et al., 2012, Bora Şenyiğit, 2014, Uyar et al., 2016, Thomas & Ahmed, 2018, Quagli et al., 2021). Nhưng, đòn bẩy tài chính thì có nhiều kết quả nghiên cứu trái ngược. André et al., (2012), Thomas & Ahmed, (2018), Quagli et al., (2021) khẳng định tác động tích cực của đòn bẩy tài chính đến sự tự nguyện áp dụng IFRS của DN. Trong khi đó, nghiên cứu của Guerreiro et al., (2008) cho thấy, mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của các công ty Bồ Đào Nha không có mối liên hệ với đòn bẩy tài chính, tương tự vậy, với nghiên cứu của Omri et al., (2011) ở Tunisian. Tuy nhiên, Hallberg et al., (2011) kết luận trái ngược với các nghiên cứu trên cho rằng, không có mối liên hệ nào giữa quy mô, đòn bẩy và khả năng sinh lời đo bằng ROA và tự nguyện áp dụng IFRS của các công ty ở Thụy Điển. Trong khi đó, công ty được kiểm toán Big 4 và số lượng các công ty trong cùng ngành tự nguyện áp dụng IFRS là hai nhân tố quan trọng quyết định sự tự nguyện áp dụng IFRS.

Bổ sung thêm trong mô hình nghiên cứu để kiểm định một số các nhân tố về đặc điểm hoạt động của DN đa dạng hơn như thời gian hoạt động, lĩnh vực kinh doanh và hình thức pháp lý, André et al., (2012) vẫn cho kết quả lĩnh vực kinh doanh, hình thức pháp lý hay cường độ sử dụng vốn không có tác động đến sự tự nguyện áp dụng IFRS của các công ty chưa niêm yết ở Anh. Kế thừa mô hình nghiên cứu của André et al., (2012), Di Fabio, (2018) khẳng định, quy mô, sở hữu nước ngoài, cường độ sử dụng vốn và đòn bẩy tài chính ảnh hưởng đến quyết định tự nguyện áp dụng IFRS. Tuy nhiên, cường độ sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính và cả quy mô đều không ảnh hưởng đến việc tự nguyện áp dụng IFRS trong nghiên cứu của Matonti & Iuliano, (2012), Pichler et al., (2018), dù đều thực hiện tương tự ở Ý. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng khác biệt khi thực hiện ở quốc gia có những đặc trưng khác với châu Âu, Sato & Takeda, (2017) xem xét quyết định của các công ty trong việc tự nguyện áp dụng IFRS trong bối cảnh có những thay đổi đối với hệ thống quản trị ở một quốc gia theo hệ thống “code law” truyền thống như Nhật Bản. Theo Sato & Takeda, (2017), khả năng tự nguyện áp dụng IFRS cao hơn đối với những công ty có mức đòn bẩy tài chính thấp và thời gian hoạt động chưa dài.

Và nhiều nghiên cứu khác thực hiện trong thời gian gần đây cũng cho kết quả trái ngược về thời gian hoạt động của công ty, quy mô và khả năng sinh lời hay đòn bẩy tài chính (Giner et al., 2019; Kabwe et al., 2021; Aladwey & Diab, 2023). Trong các nghiên cứu này, quy mô đều có tác động tích cực đến tự nguyện áp dụng IFRS. Quy mô và khả năng sinh lời làm tăng khả năng áp dụng IFRS; ngược lại, thời gian hoạt động của công ty làm giảm khả năng này (Giner et al., 2019); ngược lại, Kabwe et al., (2021) lại cho rằng khả năng sinh lời có tác động ngược chiều với mức độ tuân thủ IFRS; trong khi đó, với nghiên cứu của Aladwey & Diab, (2023), thời gian hoạt động của công ty, quy mô là các biến kiểm soát có tác động tích cực, nhưng khả năng sinh lời lại không có bất cứ ảnh hưởng nào đến việc tự nguyện áp dụng IFRS 15; tương tự vậy, các nghiên cứu của Việt Nam (VN) cũng có kết quả khác biệt, đòn bẩy tài chính không có tác động đến việc áp dụng IFRS (Toàn et al., 2017; Lê Trần Hạnh Phương., 2019; Tran et al., 2019; Nguyen., 2022), quy mô không có ảnh hưởng đến tự nguyện áp dụng IFRS trong nghiên cứu của Lê Trần Hạnh Phương., (2019) và khả năng sinh lời, đo lường bằng ROE có tác động tích cực đến việc áp dụng IFRS chỉ trong nghiên cứu của Tran et al., (2019) và Nguyen., (2022).

2.2. Hoạt động quốc tế hóa

Những hoạt động liên quan quốc tế được công nhận là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc sẵn sàng, tự nguyện áp dụng IFRS. Những hoạt động này chủ yếu đề cập đến các yếu tố như: công ty có các hoạt động thương mại với nước ngoài, có cổ đông nước ngoài, có hoạt động đầu tư/công ty con/chi nhánh ở ngoài hoặc niêm yết ở nước ngoài, tại Bảng 2. Hầu hết các yếu tố liên quan đến quốc tế hóa đều có tác động tích cực đến việc sẵn sàng nâng cao, tự nguyện áp dụng IFRS (Guerreiro et al., 2008; Guerreiro et al., 2012; Omri et al., 2011; André et al., 2012); Bora Şenyiğit, 2014; Pichler et al., 2018; ​Giner et al., 2019; Sato & Takeda, 2017; Kedzior et al., 2020).

Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên cứu cho thấy, không có tác động hoặc thậm chí ảnh hưởng tiêu cực ở một vài nhân tố. Cũng thực hiện nghiên cứu ở Nhật Bản, nhưng trái ngược với nghiên cứu của Sato & Takeda, (2017); Giner et al., (2019), Sakawa et al., (2021) cho rằng, cổ đông nước ngoài không có ảnh hưởng đến việc tự nguyện áp dụng IFRS và các cổ đông nước ngoài thích áp dụng chuẩn mực kế toán của Hoa Kỳ hơn việc áp dụng IFRS hoặc chuẩn mực kế toán của Nhật Bản. Tuy nhiên, nghiên cứu của Matonti & Iuliano, (2012) cho kết quả đáng ngạc nhiên là việc tự nguyện áp dụng IFRS lại có mối tương quan nghịch đáng kể với sự hiện diện của một hoặc nhiều chủ sở hữu nước ngoài trong công ty. Guerreiro et al., (2012) cũng có khám phá thú vị tương tự, nếu chủ sở hữu của công ty không phải là người nước ngoài thì có sự chuẩn bị tốt hơn để áp dụng IFRS, thêm nữa, các hoạt động liên quan đến quốc tế như công ty có cổ đông nước ngoài hay niêm yết ở nước ngoài lại không có bất cứ tác động đến đến sự tự nguyện áp dụng IFRS theo nghiên cứu của Hallberg et al., (2011).

Ở Việt Nam, chỉ có nghiên cứu của Lê Trần Hạnh Phương (2019) và Nguyen (2022) thực hiện kiểm định các nhân tố liên quan đến các hoạt động quốc tế như đầu tư nước ngoài, vay vốn nước ngoài hay niêm yết nước ngoài, trong đó chỉ có đầu tư nước ngoài có tác động tích cực đến việc tự nguyện áp dụng IFRS, còn lại các nhân tố khác thì đều không có ảnh hưởng.

2.3. Quản trị công ty

QTCT đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến việc áp dụng tự nguyện IFRS (Nguyen & Nguyen, 2023). Các yếu tố liên quan đến QTCT bao gồm các đặc điểm của Hội đồng quản trị (HĐQT), sự tham gia của các công ty kiểm toán Big 4 và sự hiện diện của ủy ban kiểm toán,… đã được các nghiên cứu kiểm định, nhưng kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng không đồng nhất về mối quan hệ giữa quản trị DN và việc tự nguyện áp dụng IFRS, tự nguyện công bố thông tin theo IFRS, tại Bảng 3.

Các công ty kiểm toán lớn và nổi tiếng có ảnh hưởng đến việc lập BCTC của các công ty. Hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định, các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán nổi tiếng như Big 4 có mức độ tuân thủ cao hơn và hiểu biết hơn về các yêu cầu IFRS nên có nhiều khả năng tự nguyện áp dụng IFRS (Guerreiro et al., 2008; Omri et al., 2011; André et al., 2012; Bora Şenyiğit, 2014; Kılıç et al., 2016; Sato & Takeda, 2017; Pichler et al., 2018; Sakawa et al., 2021; Toàn et al., 2017; Lê Trần Hạnh Phương., 2019; Tran et al., 2019; Nguyen., 2022). Trái lại, Guerreiro et al., (2012); Matonti & Iuliano, (2012); Giner et al., (2019); Quagli et al., (2021); Boateng et al., (2022) và Aladwey & Diab, (2023) lại cho kết quả nghiên cứu không có mối liên hệ giữa việc được công ty Big 4 kiểm toán hay không và tự nguyện áp dụng IFRS.

Một số nghiên cứu khác tập trung vào nhóm các nhân tố về đặc điểm của HĐQT, ủy ban kiểm toán, ủy ban đề cử, ban kiểm soát. Alanezi & Albuloushi, (2011) khẳng định sự tồn tại của ủy ban kiểm toán có tác động đáng kể và tích cực đến mức độ công bố thông tin theo yêu cầu của IFRS. Nhưng, Kabwe et al., (2021) không đồng nhất với kết quả về nhân tố này. Boateng et al., (2022); Mnif & Borgi, (2020); Almaqtari et al., (2021) bổ sung thêm bằng chứng quy mô HĐQT, cơ cấu lãnh đạo HĐQT có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin tự nguyện theo IFRS. Ngược lại, Quagli et al., (2021); Aladwey & Diab, (2023) đều thực hiện xác định các yếu tố quyết định việc tự nguyện áp dụng IFRS 15 cho thấy, kết quả trái ngược ở các nhân tố liên quan đến QTCT.

3. Bàn luận kết quả các nghiên cứu và hướng nghiên cứu tương lai

3.1. Bàn luận kết quả các nghiên cứu trước

Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới và VN về các nhân tố tác động đến tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng rộng rãi các khung lý thuyết khác nhau như lý thuyết thể chế, lý thuyết ủy nhiệm, lý thuyết tín hiệu và một số lý thuyết thích hợp khác.

Chủ đề nghiên cứu về sự nguyện, sẵn sàng của các DN thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển hoặc các nước đã áp dụng IFRS từ rất sớm. Các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) chiếm phần lớn các nghiên cứu Bertrand et al., (2021); Guerreiro et al., (2008; 2012); Hallberg et al., (2011); André et al., (2012); Matonti & Iuliano, (2012); Yang, (2014); Di Fabio, (2018)…, ngoài ra còn 1 số quốc gia khác như Nhật (Sato & Takeda, 2017;  Giner et al., 2019), Zambia (Kabwe et al., 2021), Ghana (Boateng et al., 2022),… Nghiên cứu ở Việt Nam còn khá ít và cũng chưa có nghiên cứu đánh giá một cách có hệ thống mức độ sẵn sàng, tự nguyện của các DN để áp dụng IFRS. Mặt khác, mức độ sẵn sàng của các DN khác nhau ở các quốc gia cũng như các giai đoạn tùy theo quy định, lộ trình áp dụng của mỗi quốc gia.

Ngoài ra, những phát hiện từ việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng tự nguyện IFRS tự nguyện được chia thành bốn nhóm chính: Các nhân tố về đặc điểm hoạt động DN; Cấu trúc vốn của DN: quy mô, lĩnh vực kinh doanh, hình thức pháp lý, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời; Các nhân tố về các hoạt động quốc tế hóa: hoạt động thương mại với nước ngoài, chi nhánh/công ty con ở nước ngoài, niêm yết nước ngoài và (4) các nhân tố về QTCT: chất lượng kiểm toán, các đặc điểm của HĐQT,… (Omri et al., 2011; André et al., 2012; Matonti & Iuliano., 2012; Yang., 2014; Uyar et al., 2016; Sato & Takeda., 2017; Di Fabio., 2018; Pichler et al., 2018;  Giner et al., 2019; Kabwe et al., 2021; Quagli et al., 2021; Aladwey & Diab., 2023). Đây là cơ sở để các quốc gia xác định DN nào thuận lợi áp dụng IFRS. Tuy nhiên, các ảnh hưởng của các nhân tố đến việc tự nguyện và sẵn sàng áp dụng IFRS không đồng nhất trong các nghiên cứu.

Các nghiên cứu đã góp phần vào sự hiểu biết toàn diện về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tự nguyện của các DN trong các bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế. Thứ nhất, các nghiên cứu này hầu hết chọn thang đo nhị phân cho nhân tố tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS, nhưng nhân tố này cần phải tổng hợp nhiều thông tin hơn, không chỉ là áp dụng IFRS hay không áp dụng IFRS để đo lường cho sự sẵn sàng, tự nguyện áp dụng IFRS. Thứ hai, thiếu các nghiên cứu ở các giai đoạn bắt đầu triển khai theo lộ trình áp dụng IFRS ở các quốc gia đang phát triển, các quốc gia khá chậm và thận trọng trong việc áp dụng IFRS. Và cuối cùng, các nghiên cứu thể hiện sự khác biệt khá rõ về kết quả nghiên cứu ở các quốc gia có những điều kiện kinh tế xã hội, luật pháp khác nhau. Từ đó, ảnh hưởng đến các nhân tố mới cần bổ sung thêm trong mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS.

3.2. Hàm ý thực tiễn cho DN, nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách

Từ kết quả tổng quan nghiên cứu, một số hàm ý thực tiễn có thể được rút ra nhằm thúc đẩy tiến trình tự nguyện áp dụng IFRS trong bối cảnh VN như sau:

Đối với doanh nghiệp

Các DN có quy mô lớn, có quan hệ quốc tế, hoặc đã từng tiếp cận với các chuẩn mực kế toán quốc tế nên tận dụng lợi thế sẵn có để chủ động triển khai lộ trình áp dụng IFRS. Việc chủ động xây dựng lộ trình và chuẩn bị nguồn lực cho việc áp dụng IFRS không chỉ giúp DN nâng cao năng lực minh bạch thông tin tài chính mà còn tạo lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế. Do đó, DN cần đầu tư đồng bộ vào hệ thống kế toán, công nghệ thông tin và đào tạo đội ngũ nhân sự am hiểu IFRS. Đặc biệt, các DN có định hướng mở rộng thị trường ra khu vực hoặc quốc tế nên xem IFRS như một phần trong chiến lược phát triển, cần sớm triển khai IFRS như một công cụ chuẩn hóa thông tin và xây dựng uy tín trong mắt nhà đầu tư nước ngoài.

Đối với nhà quản lý doanh nghiệp

Vai trò của lãnh đạo trong việc xây dựng môi trường quản trị tốt, thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, và cam kết thực hiện IFRS là yếu tố quan trọng quyết định thành công. Cần củng cố vai trò của kiểm toán nội bộ, ủy ban kiểm toán và lựa chọn đơn vị kiểm toán có năng lực để thúc đẩy quá trình tự nguyện áp dụng IFRS hướng đến minh bạch thông tin tài chính. Việc áp dụng IFRS không nên chỉ được nhìn nhận như một yêu cầu tuân thủ, mà cần được xem là cơ hội cải thiện hiệu quả điều hành và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Đối với cơ quan quản lý Nhà nước

Cần xây dựng và phổ biến các bộ công cụ, hướng dẫn áp dụng IFRS phù hợp với từng nhóm DN, đồng thời thiết lập các chính sách hỗ trợ chuyển đổi, đặc biệt cho nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc DN Nhà nước. Việc ban hành các tiêu chuẩn đánh giá mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS tại cấp độ doanh nghiệp cũng sẽ giúp quá trình triển khai mang tính chủ động và kiểm soát hơn. Ngoài ra, cơ quan quản lý có thể cân nhắc ban hành chính sách khuyến khích áp dụng IFRS cho các doanh nghiệp có yếu tố quốc tế hóa (xuất nhập khẩu, chi nhánh nước ngoài, niêm yết quốc tế, hoặc cổ đông nước ngoài) rõ rệt, ví dụ thông qua ưu đãi tiếp cận vốn hoặc hỗ trợ chi phí đào tạo.

Đối với giới học thuật và các tổ chức đào tạo

Việc tích hợp nội dung IFRS vào chương trình đào tạo là cần thiết nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Các hiệp hội nghề nghiệp cũng nên đóng vai trò tích cực hơn trong việc tổ chức đào tạo chuyên sâu, cung cấp tài liệu chuẩn mực và tư vấn kỹ thuật cho DN, hướng tới xây dựng đủ đội ngũ chuyên gia IFRS.

3.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo

Với những đánh giá trên, các hướng nghiên cứu trong tương lai có thể tập trung vào: (1) hoàn chỉnh thang đo đo lường cho nhân tố sự sẵn sàng, tự nguyện áp dụng IFRS toàn diện hơn; (2) các nghiên cứu trước hầu hết đều áp dụng phương pháp định lượng, nên nghiên cứu trong tương lai nên xem xét sử dụng kết hợp các phương pháp định tính, định lượng để đạt được sự hiểu biết toàn diện hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tự nguyện, đặc biệt trong bối cảnh của các quốc gia có những đặc điểm khác nhau; (3) Mặc dù các nghiên cứu trước đã nhấn mạnh ảnh hưởng của cơ cấu sở hữu, các nhà quản lý và chủ doanh nghiệp trong việc tự nguyện áp dụng IFRS, nhưng vẫn còn thiếu bằng chứng thực nghiệm trong bối cảnh cụ thể của các quốc gia chưa áp dụng, chỉ đang trong lộ trình áp dụng IFRS, như VN có nhiều DN Nhà nước. Hơn nữa, việc xem xét các yếu tố bên ngoài được cho là tác động đến việc áp dụng IFRS tự nguyện vẫn còn hạn chế, như yếu tố quốc tế hóa.

4. Kết luận

Từ đánh giá và phân tích một cách hệ thống các nghiên cứu về sự tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS, bài viết đã khái quát một bức tranh về việc áp dụng tự nguyện IFRS ở một số các quốc gia, chủ yếu là châu Âu, qua các nghiên cứu tập trung nhiều ở các quốc gia này. Các nhân tố tác động đến sự tự nguyện, sẵn sàng áp dụng IFRS của các DN cũng khá đa dạng có thể tổng hợp thành bốn nhóm: đặc điểm hoạt động của DN, cơ cấu vốn, hoạt động liên quan quốc và cơ chế QTCT. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chưa đồng nhất, mang đặc thù của từng quốc gia và nhiều nhân tố chưa được kiểm định đầy đủ. Vì thế, nghiên cứu các nhân tố tác động đến sự sẵn sàng, tự nguyện áp dụng IFRS là thật sự cần thiết, đặc biệt đối với các quốc gia như VN đang trong “giai đoạn vàng” của lộ trình áp dụng IFRS. Vì vậy, nghiên cứu trong tương lai về chủ đề này còn nhiều tiềm năng cho các nhà nghiên cứu.

Hồ Xuân Thủy – Phạm Thị Huyền Quyên

Tài liệu tham khảo

Lê Trần Hạnh Phương. (2019). Các nhân tố tác động đến áp dụng CMKT quốc tế (IAS/IFRS) – Nghiên cứu ở phạm vi các quốc gia và DN tại VN. Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

Phạm Ngọc Toàn, Lê Quang Mẫn và Lê Trần Hạnh Phương. (2017). Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng IFRS tại VN. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia – Nghiên cứu và đào tạo Kế toán, Kiểm toán của các trường Đại học Việt Nam theo chuẩn quốc tế, tháng 7/2017.

Aladwey, L., & Diab, A. (2023). The determinants and effects of the early adoption of IFRS 15: Evidence from a developing country. Cogent Business and Management, 10(1). https://doi.org/10.1080/23311975.2023.2167544.

Alanezi, F. S., & Albuloushi, S. S. (2011). Does the existence of voluntary audit committees really affect IFRS-required disclosure the Kuwaiti evidence. International Journal of Disclosure and Governance, 8(2), 148–173. https://doi.org/10.1057/jdg.2010.33.

André, P., Walton, P. J., & Yang, D. (2012). Voluntary Adoption of IFRS: A Study of Determinants for UK Unlisted Firms. SSRN Electronic Journal. https://doi.org/10.2139/ssrn.1978986.

Bertrand, J., de Brebisson, H., & Burietz, A. (2021). Why choosing IFRS? Benefits of voluntary adoption by European private companies. International Review of Law and Economics, 65. https://doi.org/10.1016/j.irle.2020.105968.

Boateng, R. N., Tawiah, V., & Tackie, G. (2022). Corporate governance and voluntary disclosures in annual reports: a post-International Financial Reporting Standard adoption evidence from an emerging capital market. International Journal of Accounting and Information Management, 30(2), 252–276. https://doi.org/10.1108/IJAIM-10-2021-0220.

Bora Şenyiğit, Y. (2014). Determinants of voluntary IFRS adoption in an emerging market: Evidence from Turkey. In University; Kizilhisar Campus (Vol. 13, Issue 3).

Brown, P., & Tarca, A. (2005). A commentary on issues relating to the enforcement of International Financial Reporting Standards in the EU. European Accounting Review, 14(1), 181–212. https://doi.org/10.1080/0963818042000338997.

Cai, F., & Wong, H. (2010). The Effect Of IFRS Adoption On Global Market Integration. In International Business & Economics Research Journal-October (Vol. 9, Issue 10).

Daske, H., Hail, L., Leuz, C., & Verdi, R. (n.d.). Mandatory IFRS Reporting Around the World: Early Evidence on the Economic Consequences “Providing thought leadership on financial markets, international business and public policy.” http://ssrn.com/abstract=1024240Electroniccopyavailableat:http://ssrn.com/abstract=1024240Electroniccopyavailableat:https://ssrn.com/abstract=1024240.

DeFond, M., Hu, X., Hung, M., & Li, S. (2011). The impact of mandatory IFRS adoption on foreign mutual fund ownership: The role of comparability. Journal of Accounting and Economics, 51(3), 240–258. https://doi.org/10.1016/j.jacceco.2011.02.001.

Di Fabio, C. (2018). Voluntary application of IFRS by unlisted companies: Evidence from the Italian context. International Journal of Disclosure and Governance, 15(2), 73–86. https://doi.org/10.1057/s41310-018-0037-z.

Giner, B., Merello, P., Nakamura, M., & Pardo, F. (2019). Implementation of IFRS in Japan: An analysis of voluntary adoption by listed firms. https://ssrn.com/abstract=3542995.

Guerreiro, M. S., Rodrigues, L. L., & Craig, R. (2008). The preparedness of companies to adopt International Financial Reporting Standards: Portuguese evidence. Accounting Forum, 32(1), 75–88. https://doi.org/10.1016/j.accfor.2007.11.001.

Guerreiro, M. S., Rodrigues, L. L., & Craig, R. (2012). Factors influencing the preparedness of large unlisted companies to implement adapted International Financial Reporting Standards in Portugal. Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, 21(2), 169–184. https://doi.org/10.1016/j.intaccaudtax.2012.07.006.

Hallberg, A., Persson, S., Hallberg, A., & Persson, ( S. (2011). Voluntary application of IFRS: A study of factors and explanations on the Swedish unregulated capital markets.

Kabwe, M., Mwanaumo, E., & Chalu, H. (2021). Effect of corporate governance attributes on IFRS compliance: evidence from a developing country. Corporate Governance (Bingley), 21(1), 1–22. https://doi.org/10.1108/CG-03-2020-0103.

Kedzior, M., Cyganska, M., & Syrrakos, D. (2020). Determinants of voluntary international financial reporting standards adoption in poland. Engineering Economics, 31(2), 155–168. https://doi.org/10.5755/j01.ee.31.2.24603.

Kılıç, M., Uyar, A., & Ataman, B. (2016). Preparedness of the entities for the IFRS for SMEs: an emerging country case. Journal of Accounting in Emerging Economies, 6(2), 156–178. https://doi.org/10.1108/JAEE-01-2014-0003.

Matonti, G., & Iuliano, G. (2012). Voluntary adoption of ifrs by italian private firms: a study of the determinants †. In Eurasian Business Review (Vol. 2, Issue 2).

Mnif, Y., & Borgi, H. (2020). The association between corporate governance mechanisms and compliance with IFRS mandatory disclosure requirements: evidence from 12 African countries. Corporate Governance (Bingley), 20(7), 1371–1392. https://doi.org/10.1108/CG-08-2019-0270.

Navarro-García, J. C., & Bastida, F. (2010). An empirical insight on Spanish listed companies’ perceptions of International Financial Reporting Standards. Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, 19(2), 110–120. https://doi.org/10.1016/j.intaccaudtax.2010.07.003.

Nguyen, N. G., & Nguyen, N. T. (2023). Determinants of Voluntary International Financial Reporting Standards Application: Review from Theory to Empirical Research. Journal of Risk and Financial Management, 16(11), 485. https://doi.org/10.3390/jrfm16110485.

Omri, M. A., Akrimi, N., Omri, M. A., & Akrimi, N. (2011). The preparedness of listed Tunisian companies to adopt international financial reporting standards. In Int. J. Accounting, Auditing and Performance Evaluation (Vol. 7, Issue 3).

Oppong, C., & Aga, M. (2019). Economic growth in European Union: does IFRS mandatory adoption matter? International Journal of Emerging Markets, 14(5), 792–808. https://doi.org/10.1108/IJOEM-01-2018-0010.

Pichler, S., Cordazzo, M., & Rossi, P. (2018). An analysis of the firms-specific determinants influencing the voluntary IFRS adoption: evidence from Italian private firms. In Int. J. Accounting, Auditing and Performance Evaluation (Vol. 14, Issue 1).

Quagli, A., Roncagliolo, E., & D’Alauro, G. (2021). The preparedness to adopt new accounting standards: a study of European companies on the pre-adoption phase of IFRS 15. International Journal of Disclosure and Governance, 18(3), 290–303. https://doi.org/10.1057/s41310-021-00116-2.

Sakawa, H., Watanabel, N., & Gu, J. (2021). The Internationalization and Voluntary Adoption of International Accounting Standards by Japanese MNEs. Management International Review, 61(5), 713–744. https://doi.org/10.1007/s11575-021-00452-z.

Sato, S., & Takeda, F. (2017). IFRS Adoption and Stock Prices of Japanese Firms in Governance System Transition. International Journal of Accounting, 52(4), 319–337. https://doi.org/10.1016/j.intacc.2017.09.002.

Tran, T. C. T., Ha, X. T., Le, T. H. P., & Nguyen, N. T. (2019). Factors affecting IFRS adoption in listed companies: Evidence from Vietnam. Management Science Letters, 9(Special Issue 13), 2169–2180. https://doi.org/10.5267/j.msl.2019.7.035.

Uyar, A., Kılıç, M., & Gökçen, B. A. (2016). Compliance with IAS/IFRS and firm characteristics: Evidence from the emerging capital market of Turkey. Economic Research-Ekonomska Istrazivanja , 29(1), 148–161. https://doi.org/10.1080/1331677X.2016.1163949.

Yang, D. (2014). Exploring the determinants of voluntary adoption of IFRS by unlisted firms: A comparative study between the UK and Germany. China Journal of Accounting Studies, 2(2), 118–136. https://doi.org/10.1080/21697221.2014.917030.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *