Nghiên cứu trao đổi

Cần có quy định về tài chính và kế toán quỹ trong Luật Bảo hiểm xã hội (Sửa đổi) (Ý kiến tư vấn của Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam – VAA)

Tiêu đề Cần có quy định về tài chính và kế toán quỹ trong Luật Bảo hiểm xã hội (Sửa đổi) (Ý kiến tư vấn của Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam – VAA) Ngày đăng 2023-10-16
Tác giả Admin Lượt xem 353

PGS.TS. Đặng Văn Thanh* (*Chủ tịch Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam).

Tóm tắt

Với mục đích bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) của người dân, dựa trên quyền con người theo quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các nội dung trong Nghị quyết số 28-NQ/TW theo hướng đa dạng, linh hoạt, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, tiến tới bao phủ Bảo hiểm xã hội (BHXH) toàn bộ lực lượng lao động, việc sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành Luật BHXH năm 2014 và Nghị quyết số 93/2015/QH13; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất, tính khả thi, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và bảo đảm yếu tố bình đẳng giới là cần thiết. Sửa đổi Luật BHXH lần này theo hướng mở rộng, gia tăng quyền, lợi ích, tạo sự hấp dẫn để thu hút người lao động tham gia BHXH; đồng thời, bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho người lao động đang làm việc và người hưởng lương hưu. Qua đó, Luật sửa đổi cũng hoàn thiện quy định quản lý Nhà nước và hệ thống tổ chức thực hiện chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả, công khai, minh bạch phù hợp cơ chế quản lý và bối cảnh mới của nền kinh tế.

Từ khóa: bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội, người lao động.

Về kết cấu và nội dung của Luật BHXH sửa đổi trên cơ sở kế thừa kết cấu của Luật BHXH năm 2014, có bổ sung một số nội dung, bỏ một số mục, tách, gộp và sắp xếp lại một số điều, chương.

Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) được kết cấu gồm 9 Chương và 136 Điều, đã khắc phục cơ bản những bất cập và vướng mắc của Luật BHXH hiện hành. Để Luật (sửa đổi) có tính khả thi, xin được có ý kiến về một số nội dung sửa đổi, bổ sung của dự thảo luật.

Thứ nhất, về quy định bổ sung Trợ cấp hưu trí xã hội

 Đồng ý bổ sung Chương III về Trợ cấp hưu trí xã hội (từ Điều 27 đến Điều 31), trong đó quy định: “Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khác thì sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do Ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo”.

Thứ hai, về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (Điều 3)

Việc quy định có tính mở rộng các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm: người làm việc theo hợp đồng lao động, cán bộ, công chức, viên chức, người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn Nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ, người quản lý điều hành hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hưởng tiền lương; Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh thuộc diện phải đăng ký kinh doanh.

Việc mở rộng việc tham gia BHXH bắt buộc đối với các nhóm đối tượng khác phù hợp với bối cảnh sự thay đổi của quan hệ lao động, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, đời sống của người lao động. Vì vậy, khoản 6 Điều 3 Dự thảo Luật BHXH có quy định: “Giao Chính phủ quy định việc tham gia BHXH bắt buộc đối với các đối tượng khác có thu nhập ổn định, thường xuyên phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ”.

Việc bổ sung các đối tượng trên, đảm bảo phù hợp với những quy định mới của Bộ Luật Lao động, gia tăng quyền lợi khi các nhóm đối tượng này tham gia BHXH bắt buộc, thể hiện định hướng từng bước mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện.

Thứ ba, giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hàng tháng, từ 20 năm xuống 15 năm (Điều 71) là cần thiết và phù hợp.

Tất nhiên, chỉ nên áp dụng đối với các trường hợp nghỉ hưu theo Điều 71 mà không được áp dụng đối với các trường hợp nghỉ hưu quy định tại Điều 72 (trường hợp nghỉ hưu sớm trước tuổi tuy định).

Thứ tư, về quy định hưởng BHXH một lần

Với mục đích giúp người lao động được thụ hưởng tối đa các quyền lợi dài hạn khi họ đến tuổi nghỉ hưu, góp phần ổn định cuộc sống khi về già. Luật sửa đổi nên quy định hưởng BHXH một lần, Dự thảo Luật nên theo phương án (tại điểm đ khoản 1 Điều 77): “Sau 12 tháng không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm mà người lao động có yêu cầu thì được giải quyết một phần nhưng tối đa không quá 50% tổng thời gian đã đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Thời gian đóng BHXH còn lại được bảo lưu để người lao động tiếp tục tham gia và hưởng các chế độ BHXH”.

Quy định như vậy sẽ hài hòa quyền lợi người lao động và chính sách ASXH lâu dài. Không nên phân biệt chế độ cho hai nhóm người khác nhau. Quy định vừa đáp ứng hưởng BHXH một lần vừa đáp ứng được nhu cầu nhận BHXH một lần của người lao động trong thời điểm hiện tại, song cũng đáp ứng được yêu cầu bảo đảm sự ổn định của hệ thống và quyền lợi của người lao động trong dài hạn. Theo quy định này có thể chưa giải quyết triệt để việc rút BHXH một lần, nhưng sẽ hài hòa quyền lợi người lao động và chính sách an sinh xã hội lâu dài.

Thứ năm, quy định về quản lý thu, đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện 

Cần sử dụng thành tựu của Cách mạng Công nghiệp 4.0, cách mạng công nghệ số và chuyển đổi số trong quản lý đối tượng BHXH, quản lý cơ sở dữ liệu về nguồn thu, về chi trả BHXH. Vì vậy các quy định của Luật phải tăng cường phân cấp trong quản lý BHXH; thực hiện kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm xã hội, hiện đại hóa quản lý BHXH, đặc biệt là trách nhiệm và biện pháp xác định, quản lý chặt chẽ đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cần có các quy định chặt chẽ hơn và có biện pháp về pháp lý ngăn chặn có hiệu quả tình trạng gian lận, trục lợi chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

Thứ sáu, về căn cứ đóng BHXH bắt buộc (Điều 37)

Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) bổ sung tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất bằng một nửa mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố. Mức cao nhất bằng 8 lần mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố. Đây là cơ sở quy định căn cứ đóng BHXH đối với những đối tượng không hưởng tiền lương (chủ hộ kinh doanh; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương…); và cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm tham gia đối với đối tượng người lao động làm việc không trọn thời gian.

Về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc đối với khu vực ngoài Nhà nước cơ bản kế thừa quy định hiện hành, song quy định cụ thể hơn theo hướng tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng, bao gồm mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác, được trả thường xuyên và ổn định trong mỗi kỳ trả lương. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định chi tiết nhằm xác định cụ thể các khoản phải đóng, không phải đóng BHXH bắt buộc; việc xác định tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH đối với trường hợp thỏa thuận trả lương theo giờ, ngày, tuần và theo sản phẩm, khoán.

Thứ bảy, các quy định về đầu tư quỹ BHXH

Tuân thủ nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả (Điều 126) nhưng cần có quy định đa dạng hóa danh mục đầu tư quỹ BHXH nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, đồng thời quy định rõ hơn các phương thức đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư. Điều 128, Quản lý hoạt động đầu tư: cần quy định thêm về chế độ báo cáo, quy định về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ và kiểm soát từ xa. Quy định về hệ thống quản trị rủi ro về các khoản đầu tư.

Thứ tám, quy định về chi phí quản lý BHXH

BHXH là cơ quan thực hiện nhiệm vụ thu và chi trả theo các chính sách ASXH, quản lý quỹ bảo hiểm. Theo quy định của Luật pháp, BHXH là các cơ quan độc lập). Vì vậy, cần phải có các khoản chi để thực hiện nhiệm vụ quản lý và điều hành quỹ. Nguồn kinh phí này được phép lấy từ kết quả hoạt động đầu tư sinh lời của Quỹ. Do đó, quy định tại Điều 125: “Mức chi phí quản lý BHXH được tính trên cơ sở số phần trăm của dự toán thu, chi BHXH (trừ số chi đóng bảo hiểm y tế (BHYT) cho người hưởng BHXH) và được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH” là phù hợp. Vấn đề là, xác định số % của dự toán thu, chi và quy định nội dung cơ cấu chi, mức chi sao cho phù hợp. Không nên quy định: “Mức chi phí quản lý BHXH chỉ được tính trên cơ sở số phần trăm của dự toán thu BHXH”. Quy định % trên cả thu và chi thể hiện đầy đủ hơn chức năng, nhiệm vụ của cơ quan BHXH và có tác dụng khuyến khích, tập trung thực hiện hiệu quả công tác thu, chi BHXH, phát triển đối tượng tham gia BHXH và quản lý chặt chẽ các đối tượng hưởng BHXH.

Thứ chín, về cơ quan BHXH

Quy định về cơ quan BHXH tại khoản 1 điều 16 chỉ nên quy định: “Cơ quan BHXH là cơ quan của Nhà nước do Chính phủ thành lập thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ” không quy định như Dự thảo Luật tại Điều 16. Quy định như vậy vừa không đầy đủ và không cần thiết. Chức năng và nhiệm vụ các cơ quan Nhà nước đều do Chính phủ quy định và chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan Nhà nước có thể có sự thay đổi trong từng giai đoạn.

Thứ mười, quy định về báo cáo của cơ quan BHXH

Cơ quan BHXH vừa là cơ quan của Nhà nước thực hiện các chức năng ASXH, một trong các chính sách lớn của Nhà nước. Đồng thời, còn là một Quỹ – Quỹ Bảo hiểm – Quỹ tài chính, Quỹ tiền tệ tập trung. Vì vậy, ngoài việc báo cáo Chính phủ để Chính phủ báo cáo Quốc hội tình hình thực hiện chính sách, chế độ BHXH, tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH theo định kỳ hai năm thay vì hàng năm như hiện hành (khoản 3 Điều 11). Việc quản lý Quỹ BHXH phải tuân thủ Luật pháp về tài chính kế toán, kiểm toán và tuân thủ Điều lệ quản lý Quỹ. Hơn nữa, báo cáo về tình hình tài chính quỹ phải là báo cáo hàng năm và giữa niên độ. Báo cáo tình hình tài chính và quyết toán Quỹ BHXH phải được thẩm định và kiểm toán.

Quỹ BHXH là một quỹ lớn, có nguồn vốn lớn với dòng tiền lớn, có kết dư cả triệu tỷ đồng và luân chuyển liên tục. Đây là một quỹ tài chính lớn nhất ngoài NSNN với tính chất quan trọng cả trước mắt (góp phần ổn định thị trường tài chính quốc gia) và lâu dài (đảm bảo tính bền vững của quỹ để đảm bảo khả năng chi trả của quỹ trong tương lai). Mọi sự biến động dòng tiền của Quỹ có tác động rất mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội, đến chính sách tài chính, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Rất cần phải bảo đảm an toàn và phải được kiểm soát. Cần có điều quy định riêng về kế toán và lập báo cáo tài chính Quỹ BHXH, có điều về kiểm soát nội bộ, và có điều về kiểm toán, kiểm toán nội bộ.

Đề nghị có quy định về quản lý tài chính quỹ, về báo cáo tài chính. Số liệu báo cáo phải phản ánh được những thay đổi lớn trong thực hiện quỹ; các số liệu báo cáo phải; là số liệu thực tế đã thực hiện, được thẩm định. Kiểm toán Nhà nước phải thực hiện kiểm toán quỹ BHXH và báo cáo kết quả kiểm toán với Chính phủ, với Quốc hội.

Trên đây là một số ý kiến về các điều khoản sửa đổi, bổ sung Luật BHXH. Rất mong cơ quan soạn thảo thẩm định nghiên cứu và sử dụng để Luật (sửa đổi) hoàn chỉnh và khả thi.

Tài liệu tham khảo

Ban Chấp hành TW. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018: Nâng cao độ bao phủ BHXH nhằm đảm bảo ASXH toàn dân, toàn diện.

Quốc hội. Hiến pháp 2013.

Quốc hội. Luật BHXH số 58/2014/QH 13.

Quốc hội. Luật BHXH (Dự thảo ngày 28/7/2023).

Quốc hội. Luật Lao động số 45/2019/QH14.

Quốc hội. Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12.

Quốc hội. Nghị quyết số 93/2025/QH13 ngày 22/6/2015 về việc thực hiện chính sách hưởng BHXH một lần đối với người lao động.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *