Nghiên cứu trao đổi

Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, đào tạo

Tiêu đề Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, đào tạo Ngày đăng 2018-04-23
Tác giả Admin Lượt xem 4045

(Đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số T1+2/2018)

Nhận: 06/02/2018
Biên tập: 08/02/2018
Duyệt đăng:09/02/2018

Luật Giáo dục 2005 đang được sửa đổi và bổ sung và sẽ trình ra Quốc hội, trong kỳ họp gần nhất. Luật Giáo dục 2005 đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (Điều 9). Tại Điều 13 cũng nhấn mạnh: “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục, trong đó ngân sách Nhà nước (NSNN) giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”. Những quy định pháp lý đó đã đặt giáo dục trước những cơ hội vàng, song giáo dục cũng phải chấp nhận những thách thức lớn lao của thời đại. Nếu không được đầu tư đúng mức, khó lòng đạt được mục tiêu.

Có thể thấy, Đảng và Nhà nước nhất quán quan điểm xem giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”,“nghề giáo là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Sản phẩm của nghề giáo dục, đào tạo rất đặt thù vì đó là đào tạo ra con người – điểm khởi đầu cho tất cả các ngành trong xã hội ở Việt Nam, giáo dục và đào tạo luôn là sự quan tâm đầu tư của mọi người, mọi gia đình và cả xã hội. Những năm qua, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, NSNN eo hẹp, còn phải co kéo, nhưng đầu tư cho giáo dục, đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và coi trọng Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp về giáo dục. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục của nước ta đã có những bước phát triển đáng trân trọng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển theo quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục còn nhiều bất cập. Sự trăn trở, băn khoăn của xã hội về giáo dục nhiều nhất là việc đầu tư của Nhà nước của gia đình và xã hội sao cho hiệu quả.

Có thể thấy, quy mô giáo dục của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã tăng lên đáng kể. Nhờ tăng nhanh quy mô giáo dục và đào tạo mà số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp, số lao động được đào tạo nghề tăng lên khá nhanh đã bổ sung một lực lượng lao động có trình độ, lao động có chất lượng ngày càng lớn, đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Số học sinh, sinh viên, số lao động nghề, số thạc sĩ, tiến sĩ được đào tạo ở trong nước và ngoài nước đều tăng. Cơ sở vật chất của các trường học từ bậc mầm non, mẫu giáo, phổ thông, cao đẳng, dạy nghề đã được đầu tư nhiều hơn từ NSNN, từ các doanh nghiệp, từ dân cư, từ nguồn vốn nước ngoài đã được tăng lên. Với nhận thức, chính sách giáo dục, đào tạo cùng với chính sách khoa học, công nghệ là hai chính sách quốc gia cần được ưu tiên cao nhất để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trong dài hạn, trong những năm qua, chính sách giáo dục, đào tạo ở Việt Nam đã được quan tâm và đổi mới, tạo ra nhiều kết quả quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Nhờ được đầu tư, nhiều cơ sở giáo dục, sách giáo khoa, phương tiện dùng cho dạy và học đã được tăng cường và từng bước hiện đại hóa. Đội ngũ giảng viên, đội ngũ người quản lý giáo dục đã được đào tạo và có sự cải thiện phần nào. Giáo dục đào tạo đã đóng góp đáng kể vào việc phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, phục vụ công cuộc đổi mới nền kinh tế và sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh cho đất nước.

Về đầu tư của Nhà nước. Từ nhiều năm nay, NSNN luôn dành ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực, giáo dục, đào tạo. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục hàng năm của Việt Nam luôn ở mức xấp xỉ 20%/ tổng chi NSNN, tương đương 5%/GDP, có năm đã lên tới 6,3%/GDP (2012). Đây là mức rất cao so với nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam rất nhiều. (Singapore 3,2%/GDP năm 2010, Malaysia 5,1%, Thái Lan 3,8%, Hàn Quốc 5,2% năm 2011, Hồng Kông 3,5%).

Hàng năm, NSNN dành hàng trăm nghìn tỷ đồng cho lĩnh vực giáo dục, chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN. Trong đó, Chi thường xuyên lĩnh vực giáo dục đào tạo chiếm xấp xỉ 80%, chi đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo xấp xỉ 20%. Trong tổng nguồn NSNN cho lĩnh vực giáo dục đào tạo hàng năm, nguồn Ngân sách địa phương (NSĐP) chiếm hơn 3/4, để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo của địa phương; nguồn ngân sách trung ương (NSTW) chiếm khoảng 1/4, trong đó dành cả chục nghìn tỷ đồng hỗ trợ hoạt động thường xuyên của các cơ sở giáo dục đào tạo thuộc các bộ, cơ quan trung ương. Nguồn kinh phí được ưu tiên xây dựng thêm phòng học cho giáo dục mầm non và phổ thông để xóa phòng học tạm thời, xây dựng các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, hỗ trợ đầu tư xây dựng trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề trọng điểm ở các địa phương,…

Bên cạnh việc dành ngân sách ưu tiên, Nhà nước còn có nhiều chính sách hỗ trợ khác cho giáo dục, đào tạo như chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí cho học sinh, sinh viên nghèo; dành kinh phí hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non; kinh phí hỗ trợ phát triển giáo dục đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; kinh phí hỗ trợ học bổng và hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập đối với người khuyết tật. Đồng thời, chương trình tín dụng ưu đãi dành cho sinh viên thông qua Ngân hàng chính sách xã hội đã tạo điều kiện cho hàng triệu học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập, lập nghiệp, khởi nghiệp.

Những tồn tại, hạn chế của chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo
Có thể nhận thấy, chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo của Việt Nam còn có những tồn tại và nhiều hạn chế:
Trước hết, cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa hợp lý. Cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, giữa các bậc học, nội dung chi trong từng bậc học và các ngành nghề trong từng bậc học. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên 80% tổng chi NSNN cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo, chi cho con người chiếm khoảng 80% tổng chi. Số còn lại để chi cho hoạt động dạy học, hoạt động đào tào, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo trình, tài liệu giảng dạy và học tập quá ít ỏi, chỉ chưa đầy 20%. Chi đầu tư xây dựng cơ bản trong hoạt động giáo dục đào tạo quá thấp so với nhu cầu. Vì vậy, việc nâng cao cơ sở trường học, mua sắm mới và đổi mới, nâng cấp thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến hạn chế chất lượng dạy và học. Thực tế hiện nay, cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều trường đại học, cao đẳng, trường và trung tâm dạy nghề thiếu về số lượng và lạc hậu, kém cỏi về chất lượng. Vẫn còn trên 30% số phòng học và trên 50% số xưởng, phòng thực hành là nhà tạm; chỉ khoảng 20% số trường được trang bị thiết bị ở mức độ công nghệ khá, còn lại mới chỉ được trang bị cho thực hành. Không ít trường hợp việc giảng dạy nặng về lý thuyết, sinh viên ít có cơ hội được thực hành, cả thực hành mang tính mô phỏng. Có thể nói, đến nay ở Việt Nam về cơ bản rất ít trường dạy nghề có chất lượng cao,…

Chất lượng đội ngũ giảng viên chưa được quan tâm đúng mức, chưa được bồi dưỡng thường xuyên, thiếu sự chăm lo khuyến khích để nâng cao chất lượng chuyên môn cũng như năng lực sư phạm. Cơ cấu chi chưa hợp lý, dẫn đến chất lượng giáo dục thấp. Học sinh tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, yếu kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích ứng với công việc.

Thứ hai, trong chi cho giáo dục, đào tạo chưa bố trí cơ cấu một cách tương xứng và hợp lý các khoản đầu tư cho các cấp đào tạo, các bậc học.

Theo số liệu thống kê, nhiều năm qua NSNN dành cho giáo dục đại học còn rất khiêm tốn, chỉ trên dưới 10% tổng nguồn NSNN dành cho giáo dục, đào tạo. Nếu tính theo cấp học, cấp đào tạo thì tỷ trọng chi cho giáo dục phổ thông, giáo dục mầm non chiếm xấp xỉ 70% tổng chi cho giáo dục. Chỉ có khoảng 30% tổng chi NSNN cho giáo dục, đào tạo được giành cho dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học, giáo dục thường xuyên.

Cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa hợp lý còn thể hiện ở cơ cấu đào tạo không cân đối. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sinh viên ngành kinh tế, luật chiếm tỷ trọng khá cao, trên 40%, trong khi đó khoa học cơ bản và khoa học công nghệ mỗi ngành chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 15%; các ngành nông, lâm, ngư nghiệp – lĩnh vực được coi là chủ lực của kinh tế Việt Nam chỉ chiếm 3,1% số sinh viên.

Tình trạng mất cân đối về cơ cấu giáo dục đại học và chi tiêu cho giáo dục đại học dẫn đến thiếu lực lượng lao động chất lượng cao trong nhiều ngành công nghiệp, công nghệ thông tin, các ngành khoa học công nghệ – điều kiện quan trọng quyết định phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.

Thứ ba, định mức phân bổ ngân sách cho đào tạo nghề còn thấp, đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng chưa thật gắn kết với mục tiêu, không dựa vào nhu cầu thực tế và không dựa trên kết quả, hiệu quả đầu ra.

Những năm qua, nguồn kinh phí cho dạy nghề chưa đầy 10% tổng chi NSNN cho các cấp học. Định mức chi giáo viên/học sinh, định mức chi thực hành chưa sát thực tế. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định, mức chi cho mỗi học sinh học nghề quá thấp và chưa phù hợp với nhiều ngành nghề đặc thù, đòi hỏi phải thực hành hoặc thực nghiệm. Không ít trường hợp, học viên chủ yếu chỉ được học lý thuyết, ít có cơ hội tham quan thực tế, hoặc thực hành trên thực tế, thực tế mô phỏng. Do thiếu nguồn lực, các hệ thống trường đại học, hệ thống trường cao đẳng, trường nghề ít được nâng cấp đầu tư, đổi mới quy trình đào tạo, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, không đáp ứng được yêu cầu thực tế của các đơn vị sử dụng lao động. Không chỉ bất cập về định mức và cơ cấu phân bổ, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào hoạt động đào tạo, hoạt động dạy nghề còn thấp thể hiện ở cơ cấu đào tạo, nghề nghiệp đào tạo chưa xuất phát từ yêu cầu thực tế của nền kinh tế.

Thứ tư, việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo bất cập từ dự toán đến phân bổ nguồn kinh phí do tầm nhìn còn ngắn hạn. Do thiếu chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong bố trí kinh phí đầu tư với tầm nhìn dài hạn làm cho việc đào tạo và phát triển nguồn lực ở Việt Nam luôn ở trong tình trang mất cân đối, thừa lao động chưa được đào tạo, thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu lao động có kỹ năng, có chất lượng. Nhiều ngành nghề, trong đó có những ngành nghề mới, ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động. ở Việt Nam hiện nay, tình trạng thiếu nhân lực được đào tạo, có tay nghề, thiếu lao động chuyên nghiệp diễn ra ở nhiều ngành nghề, nhiều địa phương, kể cả những ngành nghề mang tính truyền thống ở Việt Nam. Đây là khâu yếu của chúng ta so với các nước, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN, cộng đồng kinh tế tự do có sự di chuyển tự do lao động giữa các nước. Không ít doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã phải đào tạo bổ sung cho những sinh viên, học sinh sau khi tốt nghiệp, đặc biệt là trong những ngành sử dụng công nghệ hiện đại, phức tạp, dẫn đến gia tăng chi phí của DN và lãng phí nguồn lực của đất nước.

Đổi mới và tăng cường đầu tư có hiệu quả cho giáo dục, đào tạo
Cần thống nhất về nhận thức, đầu tư cho giáo dục, đào tạo là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Do đó, để đầu tư cho giáo dục, đào tạo có hiệu quả thì đầu tư của Nhà nước nói riêng và toàn xã hội nói cần phải có những giải pháp căn cơ và được triển khai một cách đồng bộ.

Trước hết, cần một chiến lược đầu tư cho giáo dục đào tạo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Bác Hồ đã nói: Vì hạnh phúc 10 năm phải trồng Người. Một là, sản phẩm của nghề giáo dục, đào tạo con người, là nguồn nhân lực – điểm khởi đầu cho sự phát triển của tất cả các ngành trong xã hội. Vì vậy, cần phải có một chiến lược đầu tư, đầu tư trong dài hạn cho nhu cầu ngày mai, nhu cầu lâu dài của đất nước. Cần thực hiện kế hoạch tài chính dài hạn, ngân sách trung hạn cho giáo dục và đào tạo.

Thứ hai, cần xác định và điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên. Cần đầu tư đổi mới chương trình, xây dựng mới và đổi mới giáo trình các môn học. Tiếp thu có chọn lọc các chương trình và giáo trình đào tạo, cũng như phương pháp dạy và học của các cấp học từ các nước có nền giáo dục hiện đại. Đầu tư có trọng tâm, ưu tiên, đặc biệt cho những ngành đào tạo khoa học cơ bản, có nhu cầu xã hội hạn chế, khả năng xã hội hóa không cao. Ưu tiên đầu tư cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông cả từ ngân sách và xã hội, chú trọng dinh dưỡng giúp cho trẻ khoẻ mạnh, vui chơi, và phát triển trí tuệ hồn nhiên ở cả thành thị, nông thôn và miền núi. Tập trung ngân sách đầu tư cho mục tiêu phổ cập. Không bỏ rơi một trẻ em nào bị thất học là trách nhiệm của gia đình, của địa phương và Nhà nước, của cả xã hội. Hướng nghiệp để phân luồng từ giáo dục trung học cơ sở, để các em có thể tiếp tục học lên hoặc học nghề đi vào cuộc sống lao động.

Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho đào tạo và đào tạo theo nhu cầu xã hội. Cơ cấu đào tạo cần theo kịp với yêu cầu xã hội, yêu cầu phát triển kinh tế ở nước ta. Đây cũng là một vấn đề cần đặt ra trong giáo dục hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo theo nhu cầu xã hội cần quan tâm đào tạo lại nguồn nhân lực đã được đào tạo mà nguồn đầu tư phải từ doanh nghiệp, từ ngân sách và từ bản thân người lao động để chuẩn bị cho đội ngũ lao động, cho nên kinh tế công nghệ số và hội nhập. Nguồn lực tài chính cần tập trung có hiệu quả và chất lượng cho đổi mới chương trình và phương thức đào tạo. Chương trình đào tạo được thiết lập phải gọn, nội dung phải thiết thực, cần giảm lý thuyết, trùng lắp và tăng thời lượng thực hành cho sinh viên ở các bậc đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học, và kể cả ở bậc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Có cơ chế và chính sách để phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp khoảng 3, 4 năm được quay lại đào tạo tiếp tục, bổ sung và nâng cao kiến thức nghề nghệp mới, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp phục vụ nhu cầu công việc trong thực tế của người lao động. Chủ trương và kinh phí dành cho đào tạo theo nhu cầu xã hội cần thực hiện cùng với các chính sách đào tạo lại sinh viên sau khi tốt nghiệp. Trang bị lại, trang bị thêm kiến thức mới, công nghệ mới, kỹ năng mới cho người lao động giống như việc tu dưỡng, sửa chữa, nâng cấp máy móc, thiết bị sau một thời gian sử dụng.

Thứ tư,
điều chỉnh cơ cấu chi giữa các bậc học, ngành học. Cần ưu tiên phát triển hài hòa tỷ lệ giữa các ngành đào tạo, thực hiện tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa giáo dục. Nhà nước cần dự báo, từ đó xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực theo ngành nghề. Có thể coi, đây là hoạt động cơ bản để xác định nhu cầu và bố trí vốn đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
Cần tập trung nguồn lực và cơ chế để đầu tư xây dựng các trường danh tiếng, chất lượng cao, trong đó có một số trường, một số ngành đào tạo mũi nhọn, có danh tiếng để thu hút học sinh giỏi trong nước và sinh viên nước ngoài. Để xây dựng một trường, một ngành đào tạo có danh tiếng thì việc đầu tiên là đầu tư xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi có năng lực, đầu tư tạo lập đội ngũ giáo viên trẻ thay thế dần đội ngũ giáo viên hiện nay. Đồng thời, quan tâm đầu tư xây dựng các cơ sở trường đại học nghiên cứu. Đây là hướng đi đúng cho tương lai và cần làm ngay. Cần có một số trường, viện là những cơ sở đào tạo trụ cột, đứng đầu tập hợp các trường, viện cùng khối ngành và hợp tác với hai viện nghiên cứu quốc gia về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các trường, viện trong khu vực và quốc tế để nghiên cứu, chuyển giao những đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản phục vụ yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trước mắt và trong tương lai. Đầu tư và tạo cơ chế cho các trường, viện trụ cột có được những công trình nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng cùng với hệ thống các trường đại học trong cả nước đào tạo được một đội ngũ các nhà khoa học trẻ cho đất nước. Theo mục tiêu đến năm 2020 -2030, về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Thứ năm, cần thực hiện quyết liệt các giải pháp về tái cơ cấu chi NSNN giành cho lĩnh vực giáo dục, đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng: Không bao cấp dàn trải, tràn lan đối với tất cả các cơ sở đào tạo; Thực hiện nguyên tắc từng bước tăng thu từ người học để bù đắp chi phí đào tạo theo lộ trình điều chỉnh giá, phí của Chính phủ. Nhà nước hỗ trợ trực tiếp học phí đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách; cho vay tín dụng ưu đãi đối với sinh viên, học sinh thuộc gia đình nghèo, cận nghèo. Phương thức phân bổ NSNN cho các trường Đại học, cao đẳng chuyển dần sang cơ chế đặt hàng. Cơ chế tài chính cho các cơ sở giáo dục, đào tạo cần được đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm. Hạn chế phương thức tính bình quân một mức chi cho tất cả các trường, các ngành học và các nghề đào tạo. Đồng thời, cần có giải pháp huy động các nguồn lực của xã hội, của doanh nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, tổng kết đánh giá và tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, đào tạo, đặc biệt trong đào tạo Đại học thuộc các ngành kỹ thuật – công nghệ, các ngành kinh tế và dạy nghề.

Trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất trong những nguyên tắc lớn và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo, Nhà nước cần đơn giản hóa, minh bạch hóa những quy định về thủ tục và điều kiện tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo. Đồng thời, khuyến khích và tăng cường tính cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

Thứ sáu, chú trong đầu tư đào tạo đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Cần bố trí nguồn lực đầu tư đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý cả số lượng và chất lượng, cả chuyên môn và đạo đức, vì đây là đội ngũ nòng cốt tác động trực tiếp vào chất lượng giáo dục. Đào tạo và xây dựng được một đội ngũ giảng viên giỏi là rất công phu và phải có cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có tài năng để họ cống hiến suốt đời cho sự nghiệp giáo dục. Muốn đất nước phát triển, cạnh tranh được với các nước, Việt Nam cần có một lực lượng lao động giỏi, có chuyên môn, ngoại ngữ làm việc tại các tổ chức quốc tế và tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học với các trường, viện trong khu vực và thế giới. Các trường, các ngành danh tiếng không thể thiếu đội ngũ giáo viên, các nhà khoa học có danh tiếng thực sự.

Thứ bảy, tăng cường hơn nữa đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống giáo dục. Có thể thấy, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục trong thời gian qua đã được nâng dần qua các năm. Chi NSNN cho giáo dục, đào tạo đã duy trì ở mức 5%/GDP, có năm đã lên trên 6,0%. Đầu tư từ người học và xã hội cũng ngày càng lớn. Tuy vậy, cơ sở vật chất của các trường học trong hệ thống giáo dục, đào tạo của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực, nhất là cơ sở vật chất của các trường đại học, cao đẳng và các trường phổ thông ở vùng sâu, vùng xa. Nhiều trường thiếu phòng học, giảng đường, phòng máy tính, phòng học ngoại ngữ và thư viện. Ký túc xá sinh viên thiếu và chưa được xây dựng phù hợp với yêu cầu của sinh viên, học sinh. Quy mô diện tích của nhiều trường đại học của các nước là rất lớn khoảng vài chục ha, có nơi vài trăm ha, nhưng ở nước ta diện tích của trường đại học chỉ vài ha. Sân vận động là nơi rất cần cho việc giáo dục thể chất, giúp sinh viên rèn luyện sức khỏe, nhưng số trường có sân vận động cũng không phải là lớn. Trong số 369 trường đại học, cao đẳng thì 122 trường không có sân vận động cho sinh viên luyện tập thể dục, thể thao. Quy mô học sinh, sinh viên ngày càng lớn, cơ sở trường đại học, cao đẳng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên không được tăng lên tương xứng thì không thể đảm bảo điều kiện học tập có chất lượng, việc thực hành, thực tập của học sinh, sinh viên đang gặp khó khăn mọi bề.

Có cơ chế, chính sách ưu tiên của Nhà nước và nhân dân trong việc xây dựng cơ sở vật chất trường sở, ký túc xá, phòng thí nghiệm trong hệ thống giáo dục, để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý và nâng cao trình độ nghiên cứu, thực hành cho sinh viên. Cần có những cơ chế đột phá về huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, ký túc xá sinh viên và phải giám sát để đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng trụ sở.

Tóm lại, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Luật Giáo dục cần thể hiện rõ hơn những chế tài về đầu tư cho giáo dục đào tạo. Cần tập hợp mọi trí tuệ và sáng kiến của nhân dân để đầu tư cho giáo dục./.

Tài liệu tham khảo
1. Luật Giáo dục 2005
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết TW 8, (K. XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
3. Trần Đại Quang: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Báo nhân dân 5/2/2017
4. TS Đinh Thị Nga. Đầu tư giáo dục từ NSNN. Tạp chí Tài chính 10/2017
5. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà, Giáo dục và Đào tạo chìa khoá của sự phát triển, NXB Tài chính
6. Bộ Tài chính, Báo cáo quyết toán NSNN 2011- 2015 và 2016
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam
8. The World Bank (2016), World Development Indicator.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *