Tóm tắt
Tại kỳ họp bất thường lần thứ hai Quốc hội khóa XV, đã thông qua Nghị quyết về “Quy hoạch tổng thể quốc gia, thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong chiến lược phát triển đất nước”. Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, có chức năng định hướng và tổ chức phát triển quốc gia mang tính tổng thể và dài hạn. Quy hoạch tổng thể có vị trí quan trọng, là quy hoạch chiếm vị trí thứ bậc cao nhất đóng vai trò dẫn dắt và làm cơ sở cho việc xây dựng, điều chỉnh một số quy hoạch quốc gia khác như quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch không gian biển, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch cấp tỉnh. Định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội là 01 trong 11 nội dung định hướng phát triển, là nội dung đầu tiên vừa là căn cứ cho các định hướng quy hoạch khác, vừa phải sử dụng kết quả các nội dung định hướng quy hoạch khác và phải phù hợp các quy hoạch khác. Trong đó, đặc biệt quy hoạch phát triển không gian vùng trời, không gian biển, định hướng sử dụng đất quốc gia, quy hoạch phát trỉển hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và đảm bảo quốc phòng an ninh quốc gia…
Từ khóa: quy hoạch, chiến lược, không gian kinh tế – xã hội, phát triển đất nước.
Mục tiêu phấn đấu
Đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2050, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030, đạt khoảng 7.500 USD. Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 có chức năng định hướng và tổ chức phát triển quốc gia mang tính tổng thể và dài hạn. Về quan điểm phát triển, kể cả quy hoạch tổng thể và trực tiếp là định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, cần quan tâm và tôn trọng nguyên tắc, quan điểm quán triệt sâu sắc, tôn trọng và phù hợp chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, phải trên cơ sở thực tế tiềm năng đất nước, thực tế phát triển đất nước, đặc biệt là thực tế tổ chức không gian phát triển quốc gia trong 10 năm gần đây. Bên cạnh đó, cần tính đến xu thế phát triển trong nước và quốc tế. Không gian phát triển quốc gia, cũng như không gian phát triển kinh tế – xã hội phải được tổ chức khoa học, hiệu quả và thống nhất trên phạm vi cả nước; bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng trên cơ sở 6 vùng kinh tế – xã hội hiện nay; và khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương trong vùng và toàn vùng; tổ chức tốt việc huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Rất cần phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, hình thành các cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Quy hoạch tổng thể quốc gia về không gian kinh tế phải bảo đảm tính khả thi, tính kết nối cho các giai đoạn tiếp theo phù hợp với khả năng cân đối nguồn lực, kể cả nguồn lực hiện hữu, nguồn lực tiềm năng của nền kinh tế.
Định hướng phát triển kinh tế – xã hội phải đảm bảo sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản. Bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, phải cân đối hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tổ chức không gian phát triển kinh tế – xã hội quốc gia các vùng lãnh thổ, các hành lang kinh tế và hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; gắn kết giữa đô thị và nông thôn; khu vực đất liền với không gian biển; khai thác và sử dụng hiệu quả không gian ngầm, vùng biển và vùng trời.
Phát huy hiệu quả các hành lang kinh tế quan trọng của khu vực và quốc tế; gắn phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả. Trong định hướng phát triển kinh tế, cần tập trung ưu tiên hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hoá, xã hội, hạ tầng thuỷ lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn gắn với không gian phát triển mới. Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm, hiện nay hình thành và phát triển các vùng động lực; các vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ; các cực tăng trưởng quốc gia quan trọng trở thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông – Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Việc phân kỳ thực hiện các chương trình, dự án quan trọng của quốc gia do cấp có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu và khả năng nguồn lực.
Về mục tiêu phát triển
Quy hoạch tổng thể quốc gia đặt mục tiêu phấn đấu, đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh nguồn nước; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước, bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 – 2030, thì đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Khi đó, quy mô dân số đạt khoảng 105 triệu người.
Về nội dung định hướng không gian phát triển vùng động lực quốc gia
Quy hoạch tổng thể đưa ra 4 vùng động lực quốc gia trong các vùng kinh tế trọng điểm, gồm 16 tỉnh (giảm 8 tỉnh, thành phố so với trước đây). Định hướng không gian vùng động lực như vậy là có chủ định đúng, đảm bảo phát triển có trọng tâm và hy vọng sẽ có tính khả thi.
Về định hướng phát triển hành lang kinh tế
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam và hướng Đông Tây dựa trên tuyến đường sắt, đường cao tốc, kết nối các cảng biển, cảng hàng không quốc tế, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thông lớn và gắn với các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Ưu tiên phát triển các hành lang kinh tế gắn với vùng động lực quốc gia, để tạo hiệu ứng lan tỏa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Định hướng quy hoạch như vậy về cơ bản là phù hợp. Tuy nhiên, cần ưu tiên tập trung nguồn lực có được từ nay đến 2030 để phát triển một số đoạn hành lang Bắc – Nam kết hợp với đường ven biển. Trong hành lang Đông – Tây, tùy theo nguồn lực nên ưu tiên một số hành lang kinh tế, các hành lang khác sẽ phát triển sau khi có nguồn lực.
Về định hướng phát triển và tổ chức không gian phát triển ngành, lĩnh vực
Xác định các ngành quan trọng của Việt Nam trong quy hoạch tổng thể để đạt cho được mục tiêu, đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Nhận diện rõ trong quy hoạch cơ cấu công nghiệp, theo 02 khu vực: khu vực nội địa Việt Nam và khu vực đầu tư nước ngoài. Định hướng phát triển ngành du lịch giành được sự quan tâm nhiều hơn việc tạo các trung tâm du lịch cấp quốc gia, cấp vùng; tạo mối liên kết giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các loại hình hoạt động du lịch.
Xác định đầy đủ nội dung của định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội trong quy hoạch tổng thể quốc gia đề ra năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là quan trọng, là cần thiết về các giải pháp thực hiện quy hoạch tổng thể quốc gia. Đây là những định hướng và tổ chức phát triển quốc gia mang tính tổng thể và dài hạn. Để định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội có thể được thực hiện có hiệu quả trong quy hoạch tổng thể quốc gia, rất cần các giải pháp vừa mang tính đồng bộ, vừa có tính khả thi và hiệu quả.
Có nhiều nhiệm vụ để triển khai, trong đó xác định 4 nhiệm vụ trọng tâm, gồm phát triển kết cấu hạ tầng; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với không gian phát triển mới; phát triển các vùng động lực, các cực tăng trưởng quốc gia; và nhiệm vụ phát triển các hành lang kinh tế.
Yêu cầu phải hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, cũng yêu cầu đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, dựa trên cơ sở tăng năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng tại địa bàn có vị trí, điều kiện thuận lợi, có hạ tầng phát triển, cảng biển, cảng hàng không quốc tế lớn, khu kinh tế ven biển, tiềm lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, để hình thành các đầu tàu lôi kéo dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.
Cần triển khai nhiều giải pháp một cách đồng bộ, có hệ thống:
Trước hết, nhóm giải pháp nguồn lực cho phát triển không gian kinh tế – xã hội
Cần huy động tối đa mọi nguồn lực, thực hiện việc phân bổ đúng mục tiêu, hợp lý, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm.
Cơ cấu lại ngân sách Nhà nước
– Cơ cấu và tổ chức lại nguồn thu, đặc biệt là các nguồn thu từ thuế, phí. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế đảm bảo thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, đồng thời là công cụ điều hành vĩ mô nền kinh tế. Nguồn thu thuế cần phải tăng về quy mô cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải đổi mới về cơ cấu, để đảm bảo nguồn lực cho phát triển không gian kinh tế – xã hội trong quy hoạch tổng thể quốc gia.
– Chi ngân sách Nhà nước cũng cần được cơ cấu lại, trước hết là cơ cấu lại chi đầu tư công, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của phân bổ nguồn vốn đầu tư, giải ngân và sử dụng vốn đầu tư công.
– Cần tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư công cho mạng lưới hạ tầng quy mô lớn như cảng biển, cảng hàng không, đường bộ, đường sắt tốc độ cao… mang tính liên vùng, liên tỉnh và kết nối vùng với các trung tâm kinh tế lớn, kết nối mạng lưới giao thông khu vực và quốc tế, đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở, các công trình kinh tế có tính lan tỏa cao, giải quyết nhu cầu thiết yếu, tháo gỡ các nút thắt của vùng, mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao cho toàn vùng.
– Cần có giải pháp, phát huy vai trò dẫn dắt, vai trò vốn mồi của đầu tư công để thu hút các nguồn vốn khác của nhân dân, của các doanh nghiệp tư nhân tham gia các công trình đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP).
Xác định và tập trung sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia, nguồn tài chính quốc gia
– Không chỉ tính toán trong phạm vi ngân sách Nhà nước, mà phải tính mọi nguồn lực tài chính có thể huy động, kể cả huy động tạm thời. Cần đổi mới căn bản cơ chế phân bổ nguồn vốn. Hạn chế tối đa tình trạng ứ đọng vốn, có tiền mà không tiêu được, giải ngân chậm, ách tắc, khê đọng vốn. Cần tổ chức lại toàn bộ nền tài chính quốc gia, tổ chức lưu chuyển dòng tiền, bắt dòng tiền luôn vận động không tắc nghẽn, không luân chuyển sai dòng.
– Cần xác định thật đầy đủ những nguồn vốn có thể khai thác, cách thức khai thác và thời điểm khai thác. Cần quan tâm và có cách thức khai thác nguồn vốn tạo ra từ vốn hóa đất đai. Cần lưu ý, đất khác với tài nguyên thiên nhiên khác là khai thác, sử dụng vô thời hạn và giá trị ngày càng tăng. Cần phải coi khai thác vốn từ đất đai là một nghệ thuật phát triển.
– Cần có giải pháp về phân bổ nguồn lực, sử dụng nguồn lực. Chắc chắn, trong nhiều năm tới nhiều nguồn vốn đầu tư tiếp tục đổ vào đầu tư cơ sở hạ tầng. Vấn đề là, kéo giảm chỉ số ICOR xuống thật nhiều (hiện nay, đang là của giai đoạn 2011 – 2020). Đây cũng là giai đoạn dùng nhiều nguồn lực đầu tư công cho xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là các đường giao thông, đường bộ cao tốc.
Thứ hai, nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
Cần có giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật, ưu tiên phát triển hạ tầng quy mô lớn của các vùng động lực quốc gia, xây dựng cơ chế chính sách, quan tâm chính sách đặc thù, đầu tư khu vực khó khăn. Nhóm giải pháp này, cần quan tâm nhiều hơn đến cơ chế chính sách cho doanh nghiệp, cho kinh tế tư nhân phát triển.
Thứ ba, nhóm giải pháp về khoa học công nghệ
Các giải pháp về chính sách, về hỗ trợ triển khai nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ, về cơ chế chính sách đầu tư, khai thác các khu công nghệ cao…
Thứ tư, nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Cần có giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, những giải pháp về nguồn nhân lực cần mang tính dài hạn. Bởi lẽ, phát triển nguồn nhân lực phải tính trong thời gian dài phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần các giải pháp đồng bộ sau:
– Tăng cường nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của nhân lực chất lượng cao, trong định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội. Cần coi nhân lực là tài nguyên quý giá nhất, lực lượng đầu tàu, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
– Tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
– Xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ mới.
– Đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục – đào tạo.
Để thực hiện thành công định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội trong quy hoạch tổng thể quốc gia đề ra năm 2030, tầm nhìn 2050, việc ưu tiên tập trung phát triển nhân lực chất lượng cao là cấp thiết, quan trọng hơn hết. Muốn vậy, phải tập trung tối đa nguồn lực cho lĩnh vực này trong những chiến lược phát triển đất nước trong tương lai để “nguồn nhân lực chất lượng cao” thực sự.
Thứ năm, nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế
Cần có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả trí tuệ và nguồn nhân lực người Việt Nam ở nước ngoài; VUSTA cần được giao nhiệm vụ và tăng cường trách nhiệm trong hoạt động này.
Tóm lại, định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội là căn cứ cho các định hướng quy hoạch khác, vừa phải sử dụng kết quả các nội dung định hướng quy hoạch khác và phải phù hợp các quy hoạch khác. Trong đó, đặc biệt quy hoạch phát triển không gian vùng trời, không gian biển, định hướng sử dụng đất quốc gia, quy hoạch phát trỉển hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và đảm bảo quốc phòng an ninh quốc gia…