(Đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số T6/2016)
Trong gần một thập kỷ qua, từ chỗ toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nằm dưới sự quản lý Nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học công lập (ĐHCL) đã dần được trao quyền tự chủ. Theo xu hướng này, thiết lập và duy trì hoạt động kiểm toán nội bộ được coi là một trong những ý tưởng đổi mới, trong cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Bài viết này, đưa ra một số thảo luận về những lợi ích cũng như những rào cản trong quá trình hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ tại các trường đại học công lập theo cơ chế tự chủ tài chính, hướng tới mục tiêu tăng cường hiệu quả, hiệu năng của hoạt động quản lý tại các đơn vị này.
Kiểm toán nội bộ (KTNB) là loại hình kiểm toán được tổ chức bên trong đơn vị và thực hiện chức năng kiểm toán cho chính đơn vị đó. Theo các chuẩn mực nghề nghiệp do IIA (Viện Kiểm toán nội bộ quốc tế) thì: “KTNB là một chức năng xác minh độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức, để xem xét, đánh giá các hoạt động với tư cách là, một sự hỗ trợ đối với tổ chức. Mục tiêu của KTNB, nhằm trợ giúp cho các thành viên của tổ chức thực hiện được trách nhiệm của mình một cách hiệu quả. Cuối cùng, KTNB trang bị cho họ cách thức phân tích, đánh giá, các đề xuất, các khuyến nghị và thông tin liên quan tới hoạt động xem xét lại. Mục tiêu KTNB còn đưa ra khung kiểm soát hiệu quả ở mức chi phí hợp lý” (IIA 1978). Như vậy, có thể thấy rằng, KTNB được hình thành và phát triển từ nhu cầu tự thân của chính các tổ chức và thực thể kinh tế.
Sự ra đời của IIA vào năm 1941, đã chính thức đánh dấu sự hiện hữu của hoạt động KTNB trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống KTNB ở Việt Nam ra đời muộn và phát triển chậm so với nhiều nước khác. Quyết định số 832-TC/QĐ-CĐKT, của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 28/10/1997, là văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến các quy định về mục đích, chức năng, nguyên tắc, phạm vi, nhiệm vụ, nội dung cũng như các vấn đề về tổ chức và nhân sự của KTNB ở Việt Nam. Từ khi ban hành quyết định này, KTNB ở nước ta đã có sự phát triển nhất định, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn, phức tạp và những tồn tại cần khắc phục (Hùng, 2009). Do vậy, việc nghiên cứu nhằm phân tích các lợi ích và những vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình hoạt động của KTNB tại các trường ĐHCL. Từ đó, có thể làm cơ sở tham khảo cho các nhà quản lý, trong việc thiết kế và duy trì bộ phận này trong tổ chức của mình là rất cần thiết.
Trên cơ sở thừa nhận vai trò của KTNB ở các trường ĐHCL trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ, nội dung tiếp theo yêu cầu quản lý của những cơ sở giáo dục ĐHCL. Từ đó, nêu ra những lợi ích cũng như những rào cản có thể phát sinh trong việc thiết kế và duy trì hoạt động của bộ phận KTNB tại các trường ĐHCL, nhằm làm cơ sở tham khảo cho các nhà quản trị trong việc tổ chức bộ phận KTNB, hướng tới mục tiêu tăng cường hiệu quả, hiệu năng của hoạt động quản lý của đơn vị mình.
Tự chủ tài chính giáo dục đại học và yêu cầu về quản lý
Trong gần một thập kỷ qua, vấn đề tự chủ đại học ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý Nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ GD & ĐT, các trường Đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước (Hoa, 2012). Tháng 10/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 77/NQ-CP, về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014 – 2017, đến nay đã có 12 trường ĐHCL được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm mô hình tự chủ. Tiếp sau đó, là Nghị định 16/2015/NĐ-CP, quy định các nguyên tắc, quy định chung về cơ chế tự chủ trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực như: Giáo dục đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa,… Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư 23/2016/TT-BTC, hướng dẫn một số nội dung về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước tại các đơn vị này. Các nội dung của những văn bản này cho thấy, các trường ĐHCL được giao quyền tự chủ nhưng cũng có nghĩa là họ phải chịu những áp lực cao hơn trước, về yêu cầu quản lý. Từ vị thế được ngân sách Nhà nước trang trải cho các khoản chi thường xuyên trên cơ sở dự toán ngân sách hàng năm, theo cơ chế tự chủ tài chính, các đơn vị này phải có phương án quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước để có nguồn thu, nhằm tự đảm bảo các khoản chi thường xuyên. Đồng thời, các trường ĐHCL cũng phải chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng dịch vụ sự nghiệp công theo các tiêu chí, tiêu chuẩn do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định, cũng như chịu sự giám sát của xã hội về các hoạt động dịch vụ công của đơn vị mình.
Để đảm bảo thực hiện được những yêu cầu trên, đòi hỏi các trường ĐHCL theo cơ chế tự chủ, cần phải có sự tự đổi mới mình theo quản trị hướng hiện đại hơn. Kinh nghiệm từ hoạt động của các Đại học lớn, có danh tiếng và xếp thứ hạng cao trên thế giới đều cho thấy sự hiện hữu và ích lợi của bộ phận KTNB trong mô hình các trường này (Hải, 2013).
Lợi ích của KTNB
Là một loại hình kiểm toán ra đời và tồn tại xuất phát từ nhu cầu “tự thân” của các thực thể kinh tế, KTNB là công cụ quan trọng để quản lý và kiểm soát các hoạt động của đơn vị, căn cứ vào yêu cầu quản trị nội bộ của các nhà quản lý. Với phạm vi kiểm toán bao trùm tất cả các hoạt động trong đơn vị, lợi ích của KTNB có thể được khai thác ở nhiều góc độ, nhưng nổi bật nhất là các nội dung liên quan đến quản lý tài chính, hiệu quả trong hoạt động và sự tuân thủ các quy định, quy chế liên quan đến quá trình vận hành của chính đơn vị đó.
Một, Đảm bảo công khai minh bạch thông tin về tài chính
Hoạt động kiểm toán được thực hiện với ba đối tượng cơ bản là báo cáo tài chính (kiểm toán tài chính); hoạt động nghiệp vụ (kiểm toán hoạt động) và sự tuân thủ các quy định (kiểm toán tuân thủ). Do đó, lợi ích đầu tiên của hoạt động KTNB được đề cập đến, chính là việc đảm bảo công khai minh bạch thông tin về tài chính. Với hình thức tổ chức là phòng ban độc lập với bộ phận kế toán tài chính của đơn vị, bộ phận KTNB sẽ đưa ra đánh giá độc lập về các kết quả quản lý tài chính của đơn vị đó; với mục đích ý kiến của KTNB sẽ được sử dụng, để phục vụ cho các nhà quản lý cũng như cho chính các thành viên trong đơn vị cùng tham gia giám sát tình hình tài chính. Nghị định 16/2015/NĐ-CP với nguyên tắc “đơn vị tự chủ cao về nguồn tài chính thì được tự chủ cao về quản lý, sử dụng các kết quả tài chính và ngược lại (đi kèm theo đó là tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự)” cũng cho thấy hiệu ứng kéo theo khi đơn vị xây dựng được cơ chế quản lý tài chính hiệu quả, công khai và minh bạch (Anh, 2016). Trong khi đó, nghiên cứu từ hoạt động của các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới cũng cho thấy, một trong những lý do cơ bản lý giải về thực tế tổ chức bộ phận KTNB là các Đại học hiện nay đang phải nỗ lực cải thiện minh bạch về các hoạt động (Hải, 2013). Như vậy, từ lý thuyết đến các mô hình thực tiễn cũng đã chứng minh lợi ích của KTNB trong khía cạnh này.
Hai, Nâng cao tính hiệu quả, tính hiệu năng và tính kinh tế trong các hoạt động
Cũng thực hiện chức năng kiểm toán nghiệp vụ để phân tích và so sánh kết quả, hiệu quả, hiệu năng của các hoạt động trong đơn vị nhưng KTNB có những ưu thế hơn hẳn so với kiểm toán từ bên ngoài. Nếu kiểm toán độc lập bị giới hạn về thời gian, không gian trong tiếp cận với đối tượng kiểm toán, thì hoạt động của KTNB không giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong đơn vị; cũng như không bị hạn chế về thời gian. KTNB có thể thực hiện từ khâu mua đầu vào, tổ chức sản xuất kinh doanh đến quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin (Thanh, 2016). Thông qua những nội dung kiểm toán cụ thể, KTNB giúp nhà quản trị cấp cao đánh giá về chính khả năng quản lý các loại rủi ro, đánh giá các hoạt động kiểm soát nội bộ đang hoạt động, nhằm quản lý rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, đồng thời góp phần đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý cả trong và ngoài đơn vị (Kiên, 2013). Nói cách khác, từ những ý kiến tư vấn của KTNB, sẽ giúp các nhà quản lý nói chung và quản lý ở các trường ĐHCL nói riêng trong việc thiết cơ cấu tổ chức trong đơn vị một cách tối ưu nhất, hướng tới tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của đơn vị.
Ba, Đảm bảo việc thực hiện các quy chế, quy định trong đơn vị
Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm tra, đánh giá độc lập sự tuân thủ của nội dung kiểm toán theo các quy định hiện hành như các luật, quy định, quy chế, chế độ, chính sách… mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện. Để đảm bảo quyền tự chủ trong mọi hoạt động, bên cạnh những quy định quản lý chung từ cấp Trung ương, cấp Bộ, các trường ĐHCL cũng có những bộ quy chế, quy định của riêng mình để quản lý, tiêu chuẩn hóa tất cả các hoạt động phát sinh trong trường, bởi lẽ tự chủ cũng đi liền với “tự chịu trách nhiệm”. Do vậy, KTNB đóng vai trò của bộ phận thực hiện hoạt động kiểm toán tuân thủ, nhằm đánh giá các hoạt động, các giao dịch và thông tin, xét trên các khía cạnh trọng yếu có tuân thủ các quy định áp dụng đối với từng bộ phận hay không. ở góc độ này, vai trò của KTNB được thể hiện trong việc tăng cường tính hiệu lực của các quy chế kiểm soát, từ đó đạt kết quả cao nhất trong công tác quản trị; cũng như đi đến hoàn thiện hệ thống các quy định quy chế này, cho phù hợp với thực tiễn hơn.
Các rào cản trong hoạt động KTNB
Thứ nhất, Rào cản về quy định
Trong khi kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được hơn 20 năm, thì cho đến nay, khái niệm KTNB vẫn còn mới mẻ với nhiều nhà quản lý. Điều này một phần do hệ thống quản lý, vẫn còn chưa đồng bộ và chưa được cập nhật kịp thời, so với thực tiễn đang diễn ra. Hiện nay, KTNB đang được thực hiện theo các quy định hướng dẫn tại Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT, có hiệu lực từ 01/01/1998. Bên cạnh đó, cũng có một số văn bản liên quan đến hoạt động KTNB. Tuy nhiên, góc độ tiếp cận còn mang tính ngành nghề, lĩnh vực chưa phải là quy định chung cho tất các đơn vị. Ví dụ, Luật Doanh nghiệp có đề cập đến KTNB là bộ phận đồng nhất với ban kiểm soát, hoặc có văn bản quy định của Ngân hàng Nhà nước quy định các ngân hàng, tổ chức tín dụng, bảo hiểm cần thiết lập bộ phận KTNB. Theo Đặng Thái Hùng (2016), mặc dù KTNB không phải là mới ở Việt Nam nhưng chưa đáp ứng thông lệ quốc tế. Đặc biệt, chưa có một văn bản nào quy định cũng như hướng dẫn về việc hình thành và tổ chức hoạt động KTNB trong các cơ sở giáo dục ĐHCL. Vấn đề này khiến cho việc thiết lập, duy trì hoạt động KTNB tại các đơn vị gặp không ít khó khăn. Tới đây, khi Luật Kế toán (sửa đổi) có hiệu lực thi hành năm 2017, thì KTNB chính thức được luật hóa, nhằm mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng tới tất cả DN, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp (Quan, 2016).
Thứ hai, Rào cản về nhân lực
Hiện nay, chất lượng và số lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ chưa ở mức mong muốn. Về mặt số lượng, ngay như các ngân hàng (được coi là những đơn vị tiên phong trong việc thiết lập bộ phận KTNB) thì 70% tổng số đơn vị chỉ có ít hơn 20 kiểm toán viên nội bộ (San, 2009). Về mặt chất lượng, Viện KTNB (Hoa Kỳ) khuyến nghị, kiểm toán viên nội bộ nên có đủ trình độ để xác định dấu hiệu gian lận, nhưng không nhất thiết phải đạt trình độ chuyên môn của một chuyên gia chuyên trách về phát hiện và điều tra gian lận. Trên thực tế, do hoạt động KTNB và chương trình phòng chống gian lận vẫn còn khá mới mẻ với nhiều đơn vị trong nước, nên nhân viên bộ phận này thường chưa có đủ trình độ và kỹ năng đánh giá rủi ro gian lận. Do vậy, rào cản này ít nhiều sẽ dẫn đến những hạn chế trong kết quả của KTNB, từ đó tạo ra những “khoảng cách” giữa “kỳ vọng quản lý” và “khả năng thực tế của đội ngũ KTNB”. Theo nghiên cứu lần thứ 10 của PwC về “Trạng thái của ngành KTNB năm 2014”, nghiên cứu trên 1.900 Giám đốc phụ trách kiểm toán (CAE), các thành viên quản lý cấp cao và các thành viên Hội đồng quản trị toàn cầu, cho thấy KTNB sẽ có cơ hội gia tăng giá trị đóng góp cho công ty nếu được cung cấp đủ nguồn lực thích đáng. Tuy nhiên, đối lập với triển vọng lạc quan trên, kết quả khảo sát về trạng thái hiện tại chỉ ra 55% quản lý cấp cao và gần 30% thành viên Hội đồng quản trị, không thấy KTNB đóng góp giá trị lớn cho tổ chức (PwC 2014). Trong khi đó ở các trường ĐHCL, vốn phải chịu cơ chế quản lý tài chính theo kiểu cấp phát trong một thời gian dài, số lượng kiểm toán viên nội bộ rất hạn chế và chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm và phần lớn chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng KTNB.
Thứ ba, Rào cản về chi phí
áp lực tự chủ về tài chính buộc các nhà quản lý trong các trường ĐHCL phải có sự cân nhắc chính xác hơn cho mỗi khoản chi tiêu thường xuyên. Do vậy, bài toán về chi phí và lợi ích luôn luôn được đặt ra, nhằm tìm ra câu trả lời có thiết lập và duy trì bộ phận KTNB trong mỗi đơn vị hay không. Trong khi, các khoản chi phí thì rõ ràng và phát sinh đều đặn, thường xuyên thì lợi ích do bộ phận này mang lại còn chưa được lượng hóa một cách cụ thể. Hơn thế nữa, có một thách thức khác mà khảo sát của PwC chỉ ra là, KTNB chưa tạo được tín nhiệm đối với các bên chính có lợi ích liên quan (San, 2009). Tính pháp lý thấp trong các kết luận của KTNB khiến cho lợi ích ngắn hạn mang lại từ hoạt động của bộ phận này, không vượt qua được chi phí cho chính nó. Tuy nhiên, nếu những lợi ích (như đã phân tích ở phần trên) được nhìn nhận ở phương diện dài hạn, phân tích với những chỉ tiêu lượng hóa cụ thể thì sẽ chứng minh được tác dụng của KTNB, cũng như vượt qua rào cản về vấn đề chi phí, vốn là một trong những áp lực căng thẳng của những trường ĐHCL khi bắt đầu cơ chế tự chủ về tài chính.
Kết luận và kiến nghị
“Một nguyên lý cơ bản phía sau tự chủ Đại học là các cơ sở giáo dục Đại học sẽ vận hành tốt hơn, nếu họ được nắm vận mệnh của chính mình” (Hoa, 2012). Theo nguyên lý này, thiết lập và duy trì hoạt động KTNB được coi là một trong những ý tưởng đổi mới trong cấu trúc, cũng như cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục Đại học theo cơ chế tự chủ tài chính. Bộ phận này sẽ đem lại những lợi ích trong nhiều mặt như: Đảm bảo sự minh bạch trong tài chính, nâng cao hiệu quả hiệu năng hoạt động cũng như duy trì sự tuân thủ các quy định, quy chế trong nội bộ đơn vị. Bên cạnh đó, cũng có không ít những rào cản phát sinh như: Sự thiếu các quy định, hướng dẫn từ phía các cơ quan chức năng, từ vấn đề nhân lực đến vấn đề chi phí… Phân tích những vấn đề trên và nhìn nhận trên phương diện dài hạn, bài viết này muốn đưa ra khuyến nghị việc thiết lập bộ phận KTNB trong các trường ĐHCL, theo cơ chế tự chủ tài chính. Để vượt qua những rào cản hiện tại, các nhà quản lý trong các trường có thể vận dụng linh hoạt các lựa chọn trong thiết kế tổ chức bộ phận này, cũng như có những khoản đầu tư chi phí, nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp. Đồng thời, cũng kiến nghị đến các cơ quan chức năng có những quy định, hướng dẫn cụ thể để làm cơ sở hỗ trợ các các trường Đại học trong việc tạo dựng và duy trì hoạt động này; Hướng tới đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động giáo dục; Cũng như làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở này, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục; Phục vụ tốt hơn cho xã hội và cộng đồng./.
Tài liệu tham khảo
Anh, P. T. V. (2016). “Để phát huy cơ chế tự chủ tài chính tại các trường ĐHCL.” Tạp chí Tài chính, Kỳ 1, Tháng 3/2016.
Hải, B. T. M. (2013). “Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các đại học.” Tạp chí Kinh tế và Phát triển Số 196 (II) tháng 10/2013: 76-84.
Hoa, H. T. X. (2012). “Tự chủ đại học: Xu thế của phát triển.” Retrieved 25/04/2016, from https://vnu.edu.vn.
Hùng, H. Đ. (2009). “Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong quản trị “. Retrieved 23/04/2016, from http://tinnhanhchungkhoan.vn.
IIA (1978). Chuẩn mực nghề nghiệp.
Kiên, P. T. (2013). “Tác động qua lại giữa kiểm toán nội bộ và nhà quản trị cấp cao: Lý thuyết và thực tiễn tại một số doanh nghiệp Việt Nam.” Tạp chí Kinh tế và Phát triển Số 195 tháng 9/2013: 42-50.
PwC (2014). Trạng thái của ngành Kiểm toán nội bộ 2014.
Quan, H. (2016). “Tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán nội bộ”. from http://www.baomoi.com.
San, L. (2009). “Chuyện kiểm toán nội bộ ngân hàng”. from http://vneconomy.vn.
Thanh, T. (2016). “Kiểm toán nội bộ giúp ngăn ngừa rủi ro và nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp”. from http://baocongthuong.com.vn.