Tổng quan về kế toán công một số quốc gia trên thế giới
Kinh nghiệm của Mỹ: Chuẩn mực kế toán (CMKT) công của Mỹ được ban hành bởi Ban Xây dựng CMKT Chính phủ (GASB). GASB được thành lập từ năm 1984 hoạt động dưới sự bảo trợ và kiểm soát của Quỹ kế toán tài chính (FAF). FAF là tổ chức tư nhân độc lập được thành lập từ năm 1972 hoạt động phi lợi nhuận. Nhiệm vụ chính của Quỹ là bảo vệ độc lập và toàn vẹn của quá trình thiết lập các chuẩn mực và bổ nhiệm các thành viên của Ban xây dựng CMKT tài chính (FASB). GASB đã ban hành được 71 CMKT, 6 khung khái niệm chung, 6 giải thích và các văn bản hướng dẫn. Theo khung khái niệm kế toán Mỹ thì báo cáo tài chính (BCTC) là một phương tiện giao tiếp thông tin tài chính cho người sử dụng. Bao gồm các báo cáo có chứa thông tin tài chính trên cơ sở dữ liệu thường được tìm thấy trong BCTC. Nhưng, BCTC không phải là nguồn duy nhất của thông tin tài chính về các tổ chức của Chính Phủ. BCTC Chính Phủ Mỹ bao gồm, BCTC cho mục đích chung và BCTC cho mục đích đặc biệt. BCTC cho mục đích chung, cung cấp thông tin một cách rộng rãi để đáp ứng nhu cầu chung của nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Khi đó, người sử dụng BCTC Chính phủ cho mục đích chung theo GASB cho rằng đó là người mà Chính phủ có trách nhiệm phải giải trình (công dân), những người trực tiếp đại diện cho người dân (cơ quan lập pháp và giám sát) và những người cho vay hoặc những người tham gia trong quá trình cho vay (các nhà đầu tư, tài trợ, chủ nợ). BCTC cho mục đích đặc biệt, có thể là các báo cáo cung cấp thông tin về tình hình tài chính, thông tin về ngân sách và các thông tin khác. BCTC mục đích đặc biệt nói chung, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu cụ thể của người sử dụng. Thông thường, người sử dụng BCTC mục đích đặc biệt có thẩm quyền theo luật định hoặc khả năng khác để yêu cầu một cơ quan Chính phủ phát hành báo cáo đáp ứng nhu cầu của họ và họ không phải chỉ dựa vào thông tin BCTC cho mục đích chung được công bố rộng rãi ra bên ngoài. BCTC mục đích đặc biệt, thường được dùng để đáp ứng nhu cầu pháp lý hoặc hợp đồng cụ thể và BCTC có thể được lập trên một cơ sở kế toán khác với nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận chung. Để đáp ứng mong muốn cung cấp thông tin tài chính mà có thể đáp ứng các nhu cầu rộng rãi cho mọi đối tượng hiện nay, GASB yêu cầu lập hai bộ BCTC riêng biệt bởi các chính quyền Bang và địa phương gồm:
– BCTC trên cơ sở quỹ, báo cáo này có thể được hiểu là BCTC cho mục đích đặc biệt được thiết kế để trình bày các giới hạn về sử dụng các nguồn lực đã được hoạch định hoặc để đánh giá trong ngắn hạn, doanh thu và chi phí phát sinh từ các hoạt động cụ thể. Những báo cáo này, trình bày các hoạt động riêng và quy mô các nguồn tài chính được phân bổ cho họ mỗi kỳ cũng như việc sử dụng các nguồn lực này. BCTC trên cơ sở quỹ có thể gồm nhiều báo cáo và được báo cáo theo nhiều nguồn tài chính khác nhau. Tuy nhiên, thông thường gồm: Bảng cân đối kế toán cho ngân sách chính quyền; Báo cáo nguồn thu, chi tiêu, thay đổi số dư ngân sách; Bảng thuyết minh BCTC.
– BCTC toàn chính quyền là báo cáo cho mục đích chung, sẽ báo cáo tất cả doanh thu, chi phí của dịch vụ cung cấp mỗi năm. Báo cáo này trình bày tình hình tài chính của toàn đơn vị. Chúng cung cấp phương pháp đánh giá trách nhiệm giải trình hoạt động và khả năng đáp ứng các mục tiêu hoạt động. Thông tin này, giúp cho người sử dụng thực hiện được các đánh giá, các quyết định tài chính và tính ổn định của chính quyền trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu lập BCTC này, việc đánh giá BCTC của toàn chính quyền tập trung vào tất cả các nguồn lực kinh tế và những báo cáo này sử dụng kế toán dồn tích cho mục đích xác định thời gian gần giống như một đơn vị hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Họ báo cáo tất cả tài sản, nợ phải trả và ghi nhận doanh thu, chi phí theo cách mà có thể so sánh được với kế toán theo loại kinh doanh.
Kinh nghiệm của úc: CMKT công của úc do Hội đồng CMKT úc (AASB) biên soạn, AASB là một đơn vị độc lập có nhiệm vụ phát triển và duy trì các tiêu chuẩn BCTC cho các tổ chức cả trong khu vực công và khu vực tư. AASB chịu sự giám sát rộng rãi của Hội đồng BCTC (FRC) một cơ quan gồm đại diện của các bên liên quan trong quá trình thiết lập CMKT. Theo CMKT úc AASB số 101 và số 1049 năm 2013 thì BCTC trình bày và thông tin về tình hình tài chính, về hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ cho những người sử dụng để đưa ra các quyết định kinh tế nói chung và tình hình doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động của đơn vị nói riêng. Do đó, để đáp ứng được mục tiêu trên, BCTC cần cung cấp được các thông tin về tài sản, các khoản phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập, chi phí và kết quả, vốn góp của các chủ sở hữu và lưu chuyển tiền. Nguyên tắc lập và trình bày BCTC tại úc được tiến hành theo chuẩn mực của quốc gia này đảm bảo tính công bằng và tuân thủ chuẩn mực, tuân thủ tính hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, trọng yếu và tập hợp, bù trừ và nhất quán. Khi đó, bộ BCTC của quốc gia này gồm 5 báo cáo là: Báo cáo tình hình tài chính; Báo cáo lãi, lỗ và thu nhập khác; Báo cáo sự thay đổi vốn chủ sở hữu; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; và Bảng thuyết minh BCTC.
Kinh nghiệm của Nam Phi: Tại Nam Phi có 37 Bộ được chia thành 5 nhóm chính gồm: Cơ quan hành chính và chính quyền cấp TW (7 Bộ); Cơ quan kinh tế và hạ tầng cơ sở (13 Bộ); Quản lý hành chính và tài chính (5 Bộ); Tư pháp và phòng chống tội phạm và an toàn xã hội (5 Bộ); Dịch vụ xã hội (7 Bộ), và 240 các cơ quan công lập. Hệ thống CMKT ở Nam Phi được quy định áp dụng cho các Bộ, ngành, cơ quan công lập thuộc Bộ (trừ cơ quan công lập tự cân đối thu, chi), các đơn vị có sử dụng NSNN (trừ DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận) thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quản lý tài chính công. Nam Phi quy định rất rõ phạm vi áp dụng hệ thống CMKT công, cụ thể như sau:
– Kế toán Quỹ ngân sách thực hiện kế toán theo cơ sở tiền do Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Ngân sách của Chính phủ Nam Phi mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước Nam Phi, các Bộ thực hiện kế toán trên cơ sở tiền có điều chỉnh.
– Chính quyền địa phương và 240 cơ quan công lập áp dụng các chuẩn mực dồn tích (GRAP) hoặc nếu Bộ Tài chính chưa công bố chuẩn mực riêng thì các đơn vị áp dụng CMKT công quốc tế (IPSAS) hoặc áp dụng chuẩn mực BCTC áp dụng trong lĩnh vực doanh nghiệp (IFRS). Chính vì vậy, tại Nam Phi có 2 bộ BCTC hợp nhất do Tổng kế toán lập. Đó là, BCTC hợp nhất của các Bộ và BCTC hợp nhất của các cơ quan công lập. Nội dung của CMKT liên quan đến việc lập và trình bày công bố BCTC khu vực công của Nam Phi gồm thành phần BCTC, nội dung, kết cấu BCTC tương đồng hoàn toàn với CMKT công quốc tế. BCTC khu vực công của Nam phi theo cơ sở kế toán dồn tích gồm: Bảng cân đối kế toán (CĐKT) để phản ánh tình hình tài chính; Báo cáo kết quả hoạt động (KQHĐ) để phản ánh quá trình hoạt động và xác định thặng dư hoặc thâm hụt của đơn vị trong kỳ kế toán; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh BCTC.
Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về BCTC khu vực công, Việt Nam có thể rút ra bài học từ các quốc gia như sau:
– Bài học rút ra từ Mỹ, theo hội đồng ban hành CMKT khu vực công của Mỹ (GASB) là một hội đồng được quản lý, giám sát từ một đơn vị tư hoạt động không vì lợi nhuận (FAF), thành viên của hội đồng được bổ nhiệm từ nhiều thành phần liên quan đến đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC nói chung trong đơn vị của khu vực công. Tại Mỹ, họ đã ban hành CMKT công riêng cho quốc gia của mình. Theo đó, Mỹ đã xác định mục tiêu rất rõ ràng là cung cấp thông tin trên BCTC cho mục đích chung của đơn vị một cách hữu ích cho việc ra các quyết định và nâng cao trách nhiệm giải trình. Quốc gia này, coi trọng trách nhiệm giải trình trên BCTC khu vực công. Do đó, BCTC được phân thành BCTC cho mục đích chung và BCTC cho mục đích riêng. Nội dung của các BCTC của Mỹ khá tương đồng với CMKT công quốc tế.
– Bài học từ úc, tại quốc gia này ban hành CMKT tách riêng cho đơn vị hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nội dung của CMKT úc liên quan việc lập và trình bày BCTC gần tương đồng với IPSASs và IAS, IFRS. Nội dung các CMKT úc được quy định rất rõ ràng và được trình bày rất chi tiết. Việc đánh số các chuẩn mực theo ba nhóm để phân biệt nội dung của chuẩn mực tương đương ISA, tương đương IFRS và chưa tương đương là việc cần thiết và rất sáng tạo, giúp cho người sử dụng CMKT có thể biết được mức độ tương đồng của CMKT quốc gia so với CMKT quốc tế. CMKT áp dụng cho các đơn vị hoạt động không vì lợi nhuận của úc luôn có quy định về việc giảm công bố thông tin và giới hạn đối tượng sử dụng thông tin. Các CMKT liên quan đến việc lập và trình bày BCTC đều quy định thông tin cung cấp trên BCTC rất chi tiết, rõ ràng đầy đủ. Nhưng để tránh lộ bí mật quốc gia trong những nội dung chuẩn mực cơ quan ban hành yêu cầu giảm công bố thông tin và giới hạn công bố thông tin trên BCTC lập cho mục đích chung. BCTC theo CMKT úc bao gồm: Báo cáo tình hình tài chính; Báo cáo thặng dư, thâm hụt; Báo cáo sự thay đổi tài sản thuần; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Và bảng thuyết minh BCTC. Cơ quan ban hành CMKT của quốc gia này không thuần tuý là cơ quan quản lý Nhà nước mà là hội đồng biên soạn chuẩn mực AASB, độc lập với các cơ quan quản lý Nhà nước. Các thành viên trong AASB được chỉ định từ nhiều đơn vị khác nhau do một đơn vị giám sát độc lập chỉ định đó là Hội đồng báo cáo tài chính (FRC). Cơ chế giám sát việc ban hành nội dung CMKT úc chặt chẽ và khách quan điều này tránh được sự chủ quan, thiên vị trong việc ban hành CMKT quốc gia để mang lại lợi ích nhóm hoặc lợi ích cá nhân từ việc ban hành CMKT công.
– Bài học từ Nam Phi, Nam Phi ban hành CMKT khu vực công riêng cho quốc gia, CMKT khu vực công của quốc gia này tương đồng với IPSAS và các quy định khác của IPSAS. Quốc gia này phân loại các đơn vị trong lĩnh vực công để áp dụng CMKT công cho phù hợp. Việc xây dựng Ban CMKT công độc lập với cơ quan quản lý Nhà nước và chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan giám sát ban hành quy định pháp luật. Do đó, Việt Nam khi nghiên cứu, xây dựng CMKT khu vực công theo kinh nghiệm của Nam Phi là chấp nhận và sửa đổi CMKT công quốc tế trên cơ sở các chuẩn mực (CM) dồn tích. Việc ban hành CMKT công Nam Phi đã phân định trách nhiệm rất rõ ràng, chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan và có các quy trình đầy đủ các bước nghiên cứu, xây dựng ban hành và áp dụng hệ thống CMKT khu vực công.
Kết luận
Từ thực tế kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy việc hạch toán kế toán tại các đơn vị công nói chung bị ảnh hưởng bởi mô hình Tổng Kế toán Nhà nước và mức độ áp dụng CMKT công quốc tế và cơ sở kế toán áp dụng cho kế toán lĩnh vực công tại quốc gia đó.
Tài liệu tham khảo
1 Bộ TC (2006), “Chế độ kế toán HCSN”, NXB Tài chính, Hà Nội.
2. Bộ TC (2007), “Hệ thống CMKT công quốc tế”.
3. Bộ TC (2011), “Tài liệu hội thảo về CMKT công quốc tế và lộ trình xây dựng CMKT công Việt Nam”.
4. Abdul Khan and Stephen Mayes, 2009. Trasition to Accrual Accounting.