Nghiên cứu trao đổi

Tổ chức kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất gạch gói ở Nghệ An- Thực trạng và giải pháp

Tiêu đề Tổ chức kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất gạch gói ở Nghệ An- Thực trạng và giải pháp Ngày đăng 2016-01-19
Tác giả Admin Lượt xem 2015

Trong xu thế hội nhập và trước chuyển đổi công nghệ sản xuất Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 và Chỉ thị số10 /CT-TTg ngày 16/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung.
Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An đã có các quyết định: số 2743/QĐ-UBND ngày 24/6/2010 về việc phê duyệt đề án bổ sung quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Nghệ An đến năm 2020, số 4325/QĐ/UBND-XD ngày 31/10/2012 về việc phê duyệt Đề án phát triển gạch xây không nung trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và các văn bản hiện hành liên quan. Các doanh nghiệp (DN) sản xuất gạch ngói ở Nghệ An đang đứng trước áp lực lớn là phải đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đầu tư vốn mở rộng quy mô hơn để tồn tại và phát triển. Vì sự sống còn này, nhiệm vụ đặt ra buộc các nhà quản lý phải hoàn thiện hệ thống quản lý cho DN, phù hợp với cách thức sản xuất  mới theo công nghệ tiên tiến với quy trình hiện đại hơn, quy mô hơn mà công cụ đắc lực không thể thiếu trong hệ thống quản lý DN hiện đại, đó là kế toán quản trị (KTQT) và chủ yếu là KTQT chi phí. Do vậy, việc tổ chức KTQT chi phí là sự cần thiết khách quan phục vụ cho công tác quản trị DN hiệu quả trong thời điểm hiện nay cũng như cho sự phát triển sau này.
Điều 3, Luật Kế toán Việt Nam quy định: “KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Trong đó, KTQT chi phí là một bộ phận của KTQT chuyên thực hiện việc xử lý và cung cấp các thông tin về chi phí nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà quản trị như hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định.
KTQT là một phân hệ của hạch toán kế toán, vì thế KTQT có những đặc điểm chung của kế toán như cùng sử dụng thông tin đầu vào từ hệ thống thông tin ban đầu trên chứng từ kế toán gắn liền với những quan hệ kinh tế, tài chính, trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của DN. Bên cạnh đặc điểm chung, KTQT có những đặc điểm riêng hình thành theo định hướng cung cấp thông tin quản trị cho những nhà quản trị trong nội bộ DN
KTQT ra đời, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin để nhà quản trị thực hiện toàn diện các chức năng quản trị.
Với vai trò và chức năng quan trọng của KTQT chi phí như đã nêu, các DN sản xuất  nói chung, các DN sản xuất gạch ngói nói riêng cần có nhận thức đầy đủ về KTQT chi phí và có kế hoạch vận dụng công cụ này vào công tác quản trị DN nói chung quản trị chi phí nói riêng.
Thực tế cho thấy, tổ chức KTQT chi phí ở các DN sản xuất gạch ngói trên địa bàn Tỉnh còn những hạn chế sau đây:
Về tổ chức bộ máy KTQT chi phí: Bộ máy kế toán của các DN mới chỉ tập trung vào công tác thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin của KTTC là chủ yếu mà chưa quan tâm đến việc tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho yêu cầu quản trị DN. Qua khảo sát cho thấy các DN chưa chủ động trong việc lập báo cáo chi phí bộ phận sản xuất hay theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm.
Về công tác phân loại chi phí SXKD. Hiện nay, chi phí SXKD trong đơn vị mới chỉ được phân loại phục vụ cho kế toán tài chính, phân loại chi phí phục vụ cho quản trị chi phí trong DN như: Phân loại chi phí theo ứng xử chi phí, phân loại chi phí sử dụng trong lập kế hoạch và ra quyết định.. gần như chưa được quan tâm.
Về xây dựng định mức và lập dự toán SXKD: Một số các DN đã xây dựng định mức, dự toán chi phí trong đơn vị, tuy nhiên, dự toán chi phí còn đang nằm ở dạng kế hoạch giá thành được lập theo từng loại chi phí để tính giá thành đơn vị sản phẩm, dự toán chưa được lập riêng cho chi phí cố định và chi phí biến đổi. Dự toán tồn tại dưới dạng dự toán tĩnh chưa phải dự toán linh hoạt nên khó đưa ra quyết định kinh doanh trong điều kiện thị trường thay đổi.
Về tổ chức thu thập thông tin KTQT chi phí:
Thứ nhất về chứng từ: Các DN chỉ sử dụng các chứng từ mang tính bắt buộc chứ chưa thiết kế các chứng từ phù hợp với KTQT.
Thứ hai về TK: Các DN chỉ mở chi tiết TK đến TK cấp 2, 3. Các tài khoản chi tiết này chưa phù hợp với việc phân tích chi phí theo định phí, biến phí từ đó phân tích chênh lệch giữa chi phí thực tế và định mức.
Thứ ba về việc lập các báo cáo quản trị: Tại các DN báo cáo được lập hầu hết là các báo cáo kế toán tài chính phục vụ cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài DN còn việc lập các báo cáo KTQT còn ít và sơ sài.
Về đội ngũ nhân viên kế toán, ở một số DN có đội ngũ nhân viên kế toán. Tuy nhiên, các nhân viên kế toán này mới chỉ được đào tạo để thực hiện công tác kế toán tài chính còn KTQT chưa có trình độ kiến thức đảm bảo để thực hiện.
Về việc áp dụng các phần mềm dùng cho quản trị chưa được ứng dụng do hạn chế chi phí tối đa và chưa nhận thức được vai trò quan trọng của KTQT.
Về việc phân tích chi phí phục vụ việc ra quyết định kinh doanh: Tại các DN việc phân tích chi phí chưa được quan tâm và chưa thực sự giúp các nhà quản lý trong việc ra các quyết định kinh doanh kịp thời và có hiệu quả.
Hoàn thiện tổ chức KTQT chi phí trong các DN sản xuất gạch ngói ở Nghệ An
Một là, hoàn thiện về mô hình tổ chức bộ máy KTQT chi phí sản xuất: Mô hình KTQT nên áp dụng cho nhóm DN này là mô hình kết hợp cả kế toán tài chính và KTQT. Với mô hình này DN vừa tận dụng được nhân sự của bộ phận kế toán tài chính, vừa tận dụng kết hợp thông tin kế toán tài chính và KTQT, vì thực tế thông tin KTQT có được dựa vào thông tin kế toán tài chính rất nhiều. Không ai có thể nắm rõ thông tin kế toán tài chính hơn chính là nhân viên kế toán tài chính. Do vậy, thông tin sẽ đáng tin cậy và chính xác hơn, đồng thời tránh lãng phí thời gian khi KTQT phải tìm hiểu về kế toán tài chính trước khi lập báo cáo.
Hai là, hoàn thiện về tổ chức nội dung KTQT chi phí
– Về tổ chức thu thập thông tin KTQT chi phí:
+ Tổ chức hệ thống chứng từ: Ngoài các chứng từ bắt buộc của kế toán tài chính thì để thu thập thông tin KTQT và phục vụ kiểm soát chi phí, công ty có thể bổ sung thêm các chứng từ như các phiếu bàn giao sản phẩm, phiếu lĩnh vật tư vượt định mức…
+ Tổ chức  hệ thống tài khoản kế toán: Để theo dõi tình hình sản xuất và lập các báo cáo KTQT thì DN phải xây dựng hệ thống tài khoản chi tiết dựa trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán được Bộ Tài chính ban hành.
+ Tổ chức hệ thống sổ kế toán: Với mục đích cung cấp thông tin cho nhà quản trị phục vụ ra quyết định, lập dự toán chi phí, quản lý chi phí của hoạt động SX -KD, kế toán cần thiết kế hệ thống sổ kế toán chi tiết để thu thập, xử lý và cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động SX -KD trong DN. Chính vì vậy, kế toán ngoài việc phản ánh trên sổ kế toán tổng hợp còn phải mở các sổ chi tiết theo từng đối tượng cụ thể nhằm cung cấp thông tin hữu ích, kịp thời cho việc ra quyết định của nhà quản trị.
+ Tổ chức hệ thống báo cáo KTQT: Để phục vụ cung cấp thông tin cho quản trị DN cụ thể là thông tin chi phí các DN cần xây dựng một hệ thống báo cáo KTQT để hoạch định, kiểm soát, tổ chức thực hiện nhằm đạt được mục tiêu dự kiến. Hệ thống này phải đảm bảo là phù hợp với yêu cầu cung cấp thông tin phục vụ quản trị nội bộ.
– Về tổ chức phân loại chi phí: Để đáp ứng yêu cầu của nhà quản trị cũng như mục tiêu hoạt động của các DN thì nên sử dụng thêm cách phân loại chi phí phù hợp với yêu cầu quản lý của các DN, có thể là: Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí gồm: định phí, biến phí, chi phí hỗn hợp; Phân loại theo chức năng hoạt động gồm: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất; Phân loại chi phí trong việc lựa chọn các phương án SXKD gồm: chi phí chìm, chi phí cơ hội và chi phí chênh lệch.
– Về xây dựng hệ thống định mức và dự toán chi phí: Định mức chi phí là căn cứ xây dựng dự toán chi phí. Các DN nên áp dụng quy định về trình tự lập Dự toán ngân sách SXKD theo Thông tư 53/ 2006/TT- BTC ngày 12/6/2006 của Bộ Tài chính. Việc lập dự toán được thực hiện cho từng sản phẩm, dịch vụ và chi phí hoạt động các bộ phận. Đầu tiên, các bộ phận trong DN trực tiếp chịu trách nhiệm lập dự toán ngân sách SXKD của bộ phận mình. Phòng kế toán DN có trách nhiệm tổng hợp dự toán của các bộ phận thành dự toán ngân sách chung của toàn DN. Sau đó, đệ trình lên lãnh đạo DN. Sau khi có ý kiến của lãnh đạo DN tiến hành phổ biến lại cho các bộ phận để thực hiện./.

Tài liệu tham khảo

1. Luật Kế toán số 03/2003/QH11;
2. Nghị định 90/2001/NĐ-CP;
3. Bộ Tài chính (2006), Thông tư 53/2006/TT-BTC về hướng dẫn áp dụng kê toán quản trị DN;
4. TS. Phan Đức Dũng (2008), KTQT, NXB Thống kê..

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *