Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều sửa đổi quan trọng. Trong đó, có một nội dung mới là quy định về cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN) tại Điều 118:
“1. KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
2. Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN do luật định.
Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước ủy ban Thường vụ Quốc hội.
3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của KTNN do luật định”.
Đồng thời, bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc hội liên quan đến tổ chức, hoạt động của KTNN (ở Chương V quy định về Quốc hội) như việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN; KTNN chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; mối quan hệ giữa KTNN với các cơ quan của Quốc hội, thẩm quyền của KTNN trong việc trình dự án luật ra trước Quốc hội …
Các quy định trên đây của Hiến pháp đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển KTNN, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (Khóa XI); phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc kiểm toán được ghi nhận trong các văn kiện của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao, của Hội đồng Liên hiệp quốc và thông lệ quốc tế. Đồng thời, quy định của Hiến pháp đã nâng cao địa vị pháp lý của KTNN, khắc phục những bất cập về địa vị pháp lý của KTNN trong quy định hiện hành của Nhà nước.
Để cụ thể hóa quy định về KTNN trong Hiến pháp, ngày 24/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật KTNN (sửa đổi) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Luật KTNN (sửa đổi) thay thế Luật KTNN năm 2005 và đã cụ thể hóa quy định về KTNN trong Hiến pháp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, để cụ thể hóa Khoản 1, Điều 118, Hiến pháp, Luật KTNN (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN; trong đó, mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm toán của KTNN và bổ sung nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN.
– Mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm toán của KTNN (Điều 4): “Đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán”. Quy định này đã xác định đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công theo quy định của Hiến pháp. Lần đầu tiên, các thuật ngữ “Tài chính công”, “Tài sản công” được Luật KTNN (sửa đổi) giải thích rõ, cụ thể như sau:
Tài chính công bao gồm: ngân sách Nhà nước; dự trữ quốc gia; các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách; tài chính của các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hóa công, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có sử dụng kinh phí, ngân quỹ Nhà nước; phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp; các khoản nợ công.
Tài sản công bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; tài nguyên thiên nhiên khác; tài sản Nhà nước tại cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; tài sản công được giao cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng; tài sản dự trữ Nhà nước; tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Như vậy, so với Luật KTNN năm 2005 đối tượng kiểm toán của KTNN đã được mở rộng; đồng thời, khẳng định nguyên tắc: ở đâu có quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công thì ở đó có KTNN, tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng phạm vi đơn vị được kiểm toán là các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Để phù hợp với phạm vi kiểm toán mở rộng theo quy định của Hiến pháp như đã nêu trên, ngoài những đơn vị được kiểm toán như quy định của Luật KTNN năm 2005, Luật KTNN (sửa đổi) bổ sung đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý, sử dụng nợ công; doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống (Khoản 10, Điều 55).
– Bổ sung nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN (Điều 5): “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; trung thực, khách quan, công khai, minh bạch”. So với Luật KTNN năm 2005 đã bổ sung thêm cụm từ “công khai, minh bạch”, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng.
Thứ hai, để cụ thể hóa Khoản 2, Điều 118 Hiến pháp, Luật KTNN (sửa đổi) đã quy định rõ thẩm quyền, thủ tục bầu Tổng KTNN, nhiệm kỳ của Tổng KTNN và bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền của Tổng KTNN
– Quy định rõ thẩm quyền, thủ tục bầu Tổng KTNN, nhiệm kỳ của Tổng KTNN: Sửa đổi quy định về thủ tục bầu Tổng KTNN cho phù hợp với quy định của Hiến pháp; sửa đổi quy định về nhiệm kỳ của Tổng KTNN từ 7 năm thành 5 năm cho phù hợp với các chức danh khác trong bộ máy Nhà nước. Cụ thể: Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiễm và bãi nhiễm theo đề nghị của ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hộ về tổ chức và hoạt động của KTNN. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN là 05 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Tổng KTNN có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ liên tục (Điều 12).
– Bổ sung trách nhiệm của Tổng KTNN: Trình bày báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, báo cáo trước ủy ban Thường vụ Quốc hội; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội trước Quốc hội hoặc ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khoản 2, Điều 13).
– Bổ sung thẩm quyền của Tổng KTNN: Xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực KTNN theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 2, Điều 6); ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 3, Điều 14); bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch Kiểm toán viên Nhà nước (Khoản 2 Điều 20).
Thứ ba, để cụ thể hóa Khoản 3, Điều 118 Hiến pháp, Luật KTNN (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN cho phù hợp với cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
– Quy định rõ giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN lập và công bố sau mỗi cuộc kiểm toán để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Luật KTNN (sửa đổi) đã quy định rõ về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán: (1) Báo cáo kiểm toán của KTNN sau khi phát hành và công khai có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. (2). Báo cáo kiểm toán của KTNN là căn cứ để: a) Quốc hội sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định và giám sát việc thực hiện: mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội dài hạn và hàng năm của đất nước; chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia; chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; b) Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình; c) Hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình; d) Đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại (Điều 7).
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị được kiểm toán, nâng cao trách nhiệm của KTNN đối với báo cáo kiểm toán, Luật KTNN (sửa đổi) bổ sung quy định đơn vị được kiểm toán có quyền khiếu nại về đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị trong báo cáo kiểm toán khi có căn cứ cho rằng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đó là trái pháp luật (Khoản 5, Điều 56); trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại (Điều 69).
– Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của KTNN
Luật KTNN (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của KTNN cho phù hợp quy định của Hiến pháp, thông lệ quốc tế và thực tiễn kiểm toán tại Việt Nam:
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn: KTNN có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (Điều 9); quyết định kế hoạch kiểm toán hằng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện (Khoản 1, Điều 10); giải trình về kết quả kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật (Khoản 9, Điều 10); xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Chiến lược phát triển KTNN (Khoản 18, Điều 10); trình dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 11).
Hệ thống tổ chức của KTNN: Bổ sung quy định Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng phải là Kiểm toán viên chính trở lên (Khoản 3, Điều 17), nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán và tính chuyên nghiệp của KTNN.
Kiểm toán viên Nhà nước: Bỏ ngạch KTV dự bị và bổ sung tiêu chuẩn bổ nhiệm các ngạch KTV (Điều 23, Điều 24, Điều 25), cho phù hợp Luật cán bộ, công chức, thực tiễn hoạt động kiểm toán, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ KTV của KTNN.
Hoạt động KTNN: Để đảm bảo kết quả kiểm toán phục vụ kịp thời cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và bảo đảm tính công khai, minh bạch của hoạt động KTNN, Luật KTNN (sửa đổi) quy định thời hạn cụ thể của cuộc kiểm toán. Theo quy định Điều 34: Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng KTNN quyết định gia hạn một lần, thời hạn gia hạn không quá 30 ngày. Đối với cuộc kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công có quy mô toàn quốc, Tổng KTNN quyết định cụ thể về thời hạn kiểm toán. Luật KTNN (sửa đổi) cũng quy định báo cáo kiểm toán sau khi phát hành được Tổng KTNN công bố công khai, trừ những nội dung thuộc bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật; Tổng KTNN tổ chức công khai báo cáo kiểm toán theo một hoặc một số hình thức: họp báo, công bố trên Công báo và phương tiện thông tin đại chúng, đăng tải trên trang thông tin điện tử và các ấn phẩm của KTNN, niêm yết tại trụ sở của đơn vị được kiểm toán (Điều 50).
TS. Đặng Văn Hải * Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế – Kiểm toán Nhà nước