Nghiên cứu trao đổi

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ quỹ tín dụng nhân dân

Tiêu đề Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ quỹ tín dụng nhân dân Ngày đăng 2021-08-09
Tác giả Admin Lượt xem 5470

{Bài viết đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 – 1914), số 210, Tháng 3/2021 của Th.s. Trần Trọng Triết – Thanh tra giám sát ngân hàng NHNN Chi nhánh tỉnh An Giang}.


Đến nay, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) đã không ngừng lớn mạnh về quy mô và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để hệ thống QTDND phát triển ổn định và bền vững đi đúng tôn chỉ, mục đích, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ (KTNB) hiệu quả nhằm quản lý kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động. Bài viết đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát, KTNB tại QTDND, góp phần thiết thực vào quá trình tái cơ cấu QTDND.
Từ khóa: Quỹ tín dụng nhân dân, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ.


1. Vai trò của kiểm soát và KTNB trong QTDND
Theo Khoản 6, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì QTDND là TCTD do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật này và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Với định nghĩa như vậy, QTDND hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và của từng thành viên, giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. Hoạt động của QTDND phải đảm bảo bù đắp chi phí và có tích lũy để phát triển.

Trải qua hơn 25 năm hình thành và phát triển, hệ thống QTDND trên cả nước đến tháng 10/2020 có 1.182 QTDND, với quy mô tổng tài sản hơn 143.000 tỷ đồng, chiếm 1,08% tổng tài sản hệ thống tín dụng. Các QTDND ngày càng quan tâm nhiều hơn đến rủi ro và việc quản trị rủi ro là một vấn đề rất quan trọng đối với hoạt động của QTDND, trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay. Thực tế, mọi hoạt động của QTDND đều có thể phát sinh rủi ro, do đó mà đơn vị phải luôn đánh giá và phân tích những nhân tố ảnh hưởng tạo nên rủi ro có thể làm cản trở quá trình đạt được mục tiêu và phải cố gắng kiểm soát, để tối thiểu hóa những tổn thất do các rủi ro này gây nên. Chính vì vậy, đánh giá rủi ro được xem là bước quan trọng đầu tiên để có cơ sở xác định và thiết lập các thủ tục kiểm soát phù hợp để quản lý rủi ro, nhằm đạt được mục tiêu QTDND đã đề ra. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm soát, KTNB hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của QTDND sẽ mang lại sự phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững cho toàn hệ thống.

Theo COSO (Committee of Sponsoring Organization – một ủy ban thuộc Hội đồng Quốc gia Hoa Kỳ về chống gian lận khi lập báo cáo tài chính), kiểm soát nội bọ (KSNB) là quy trình đưa ra bởi các nhà quản lý và nhân sự khác, được thiết kế để đưa ra sự đảm bảo cho việc đạt được mục tiêu về hoạt động, báo cáo và tuân thủ. KSNB bao gồm 5 yếu tố cấu thành, đó là: (i) Môi trường kiểm soát; (ii) Đánh giá rủi ro; (iii) Hoạt động kiểm soát; (iv) Thông tin và truyền thông; (v) Giám sát (Nguyễn Minh Phương, 2014).
Khi quy mô của một đơn vị càng lớn dần thì chức năng quản lý và kiểm soát càng trở nên cấp thiết hơn, các nhà quản lý cần kiểm soát về mọi phương diện thông qua các chính sách, thủ tục, quy định về tổ chức và hoạt động. Hệ thống chính sách và thủ tục đó chính là hệ thống KSNB của một đơn vị. Nói cách khác, hệ thống KSNB là toàn bộ các chính sách, những quy định, các thủ tục kiểm soát, các bước công việc do lãnh đạo đơn vị xây dựng và áp dụng nhằm quản lý và điều hành hoạt động của đơn vị đạt kết quả. Hệ thống KSNB nhằm vào 3 vấn đề lớn. Đó là: (i) Tuân thủ luật pháp và quy định; (ii) Đảm bảo mục tiêu của hoạt động (hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý); (iii) Đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính (Nguyễn Thị Ngọc Thọ, 2015).

So sánh hai khái niệm trên, có thể nhận thấy, KSNB và hệ thống KSNB đều hướng đến một mục đích chung, đều do con người xây dựng, thiết lập những chính sách, thủ tục, nguyên tắc, quy định có tính hệ thống được thừa nhận rộng rãi, phổ biến và bao trùm. Kiểm soát thường xuyên quan tâm đến mục tiêu kiểm soát hơn là các hành vi cụ thể và thủ tục kiểm soát với những quan điểm khác nhau trong từng điều kiện và giai đoạn cụ thể. Loại kiểm soát hành vi với những thủ tục cụ thể người ta gọi là các thủ tục kiểm soát. Với loại kiểm soát này, có những quan điểm hiện nay cho rằng đó là loại kiểm soát quản lý, hay kiểm soát độc lập trong kiểm soát trực tiếp các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Ngược lại, hệ thống KSNB không chỉ là một thủ tục hay một chính sách được thực hiện ở một vài thời điểm nhất định, mà nó được vận hành liên tục ở tất cả mọi cấp độ trong đơn vị. Khi nói đến hệ thống KSNB là nói đến các chính sách, thủ tục, các bước kiểm soát do lãnh đạo đơn vị xây dựng có tính chất bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong đơn vị. Do đó, hệ thống KSNB bao gồm cả KSNB và bản thân con người cùng những phương tiện có tính chất kỹ thuật, cấu trúc hướng vào kiểm soát mang tính bền vững, ổn định, đảm bảo và lâu dài. Hệ thống KSNB thường được bản thân các lãnh đạo đơn vị xây dựng, thiết lập hướng vào kiểm soát các hoạt động trong phạm vi và trách nhiệm của đơn vị.

Để xác lập hành lang pháp lý an toàn cho các QTDND trong hoạt động phù hợp với tình hình thực tế hiện nay và tạo sự liên kết chặt chẽ về vốn đối với các thành viên trong TCTD là hợp tác xã (HTX), ngoài Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn ban hành nhiều văn bản pháp lý mới như Thông tư số 04/2015/TT-NHNN, Thông tư số 32/2015/TT-NHNN, Thông tư số 44/2011/TT-NHNN, Chỉ thị 06/CT-NHNN về thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14; Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; Chỉ thị 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 21/2019/TT-NHNN,… Những văn bản quy phạm pháp luật này bổ sung nhiều nội dung mới theo hướng chặt chẽ hơn, cơ cấu lại hoạt động của QTDND theo đúng mục tiêu hoạt động là TCTD là HTX, tăng cường công tác quản trị điều hành cũng như công tác giám sát và rà soát nội dung hoạt động nhằm hạn chế rủi ro, an toàn hệ thống.

Cơ cấu của hệ thống QTDND Việt Nam hiện nay gồm: Bộ phận trực tiếp kinh doanh và bộ phận liên kết phát triển, trong đó các QTDND đóng vai trò nền tảng, Ngân hàng Hợp tác xã (trước đây là QTDTW) đóng vai trò trung tâm điều phối các hoạt động liên kết kinh tế, Hiệp hội QTDND thực hiện chức năng đại diện và định hướng hoạt động chung của toàn hệ thống. Một trong những ưu điểm nổi bật về cơ cấu tổ chức của hệ thống QTDND Việt Nam là sự phân định chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận cấu thành hệ thống khá hợp lý. Trải qua ba lần chuyển đổi cơ bản của mô hình tổ chức, để nâng cao khả năng ứng phó trước các biến động của nền kinh tế đối với hệ thống QTDND.

Sự phân định chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản trị, điều hành và kiểm soát khá rõ ràng và phù hợp với đặc thù của loại hình TCTD là HTX. Đây chính là điều kiện cơ bản để các QTDND phát huy nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh; đồng thời tạo thuận lợi cho sự phối kết hợp giữa các bộ phận của mình.

Bộ máy tổ chức của QTDND gọn nhẹ, linh hoạt, các quy trình nghiệp vụ được tối giản, dễ vận dụng nhưng vẫn đảm bảo an toàn, góp phần làm giảm chi phí trong hoạt động.

Ngân hàng Hợp tác xã (NH HTX) đã thực hiện vai trò làm đầu mối kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thực hiện điều hòa vốn; Đảm bảo khả năng chi trả và khả năng thanh toán của cả hệ thống thông qua việc nhận tiền gửi từ các QTDND; Huy động vốn của các cá nhân, tổ chức trong xã hội; Cho vay và là đầu mối cung ứng dịch vụ, tư vấn cho các QTDND (Hình 1).

2. Công tác kiểm soát, KTNB và nhận diện rủi ro trong hoạt động của QTDND
Trước thực trạng của một bộ phận QTDND chưa bám sát mục tiêu hoạt động, có biểu hiện chạy theo lợi nhuận, các quy chuẩn về kiểm soát, KTNB chưa được coi trọng đã tạo nhiều tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động và gây ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống. Do vậy, Luật Các TCTD đã quy định rất rõ nét, cụ thể về việc tuân thủ hệ thống KSNB (Ðiều 40), KTNB (Ðiều 41) và đặc biệt là về vấn đề kiểm toán độc lập (Ðiều 42) đối với các TCTD, trong đó bao gồm cả các QTDND. Tất cả các quy định này hướng tới mục tiêu củng cố các TCTD nói chung và các QTDND nói riêng phải tăng cường công tác giám sát, KSNB, qua đó tự nâng cao năng lực quản trị điều hành hoạt động, quản trị rủi ro.

Từ những định hướng cơ bản trên, đồng thời triển khai Luật Các TCTD, Quyết định số 254/QÐ-TTg và Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/07/2017 về phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. Thời gian qua, NHNN đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật được xem là nền tảng pháp lý quan trọng thực hiện mục tiêu dần hoàn thiện mô hình TCTD là HTX hoạt động đúng bản chất, mục tiêu, định hướng đã đặt ra.

Trước tiên, phải kể đến Thông tư số 39/2011/TT-NHNN, ngày 15/12/2011 quy định về kiểm toán độc lập đối với TCTD chi nhánh ngân hàng nước ngoài, theo đó các QTDND có tổng tài sản từ 50 tỷ đồng trở lên phải thực hiện tiến hành kiểm toán độc lập. Bên cạnh Thông tư số 39/2011/TT-NHNN, NHNN đã ban hành Thông tư số 44/2011/TT-NHNN, ngày 29/12/2011 quy định về hệ thống KSNB và KTNB của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó đã có những quy định riêng biệt áp dụng đối với các QTDND dựa trên những đặc thù (về quy mô, trình độ, khả năng áp dụng) của các QTDND. Việc yêu cầu các QTDND tuân thủ Thông tư số 39/2011/TT-NHNN và Thông tư số 44/2011/TT-NHNN là những bước đi có tính đồng bộ, thiết thực đối với các QTDND trong việc tự hoàn thiện, nâng cao chất lượng nghiệp vụ, quy trình tác nghiệp trong hoạt động của các QTDND vốn được đánh giá là khâu yếu kém, bị lơ là của hệ thống QTDND hiện nay. Bên cạnh đó, NHNN ban hành Thông tư số 31/2012/TT-NHNN về NH HTX. Ðây được xem là nền tảng pháp lý quan trọng cho sự ra đời của NH HTX – tổ chức đầu mối liên kết, hỗ trợ, chăm sóc hệ thống. Ngoài ra, NHNN còn ban hành Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, ngày 23/01/2014 quy định về Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND và đặc biệt là Thông tư 04/2015/TT-NHNN, ngày 31/03/2015 quy định về QTDND.

Theo quy định của Thông tư 39/2011/TT-NHNN, các QTDND có tổng tài sản từ 50 tỷ đồng trở lên phải thực hiện tiến hành kiểm toán độc lập. Việc các QTDND tiến hành kiểm toán độc lập được tính toán dựa trên tính đặc thù, quy mô của hệ thống QTDND. Do QTDND hoạt động tập trung tại các vùng nông nghiệp, nông thôn nên khó tiếp cận với dịch vụ kiểm toán độc lập và chi phí thường khá cao so với quy mô hoạt động của các QTDND.

Thông tư số 44/2011/TT-NHNN, ngày 29/12/2011 quy định về hệ thống KSNB và KTNB, theo đó các QTDND phải tiến hành thành lập bộ máy KTNB theo quy định. Với QTDND có quy mô quá nhỏ, năng lực KTNB còn hạn chế, nên tại Thông tư 31/2012/TT-NHNN đã giao NH HTX – với vai trò là ngân hàng liên kết hệ thống các QTDND – thực hiện việc hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động KTNB của các QTDND thành viên (thông qua việc chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm thiết lập, vận hành hệ thống KTNB, đào tạo nhân viên,…) để bảo đảm toàn bộ hệ thống QTDND tuân thủ đúng quy định, tại Thông tư số 44/2011/TT-NHNN. Tuy nhiên, NH HTX cũng mới thành lập không lâu, chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc hướng dẫn xây dựng hệ thống KSNB cũng như thành lập bộ phận KTNB để thực hiện chức năng giám sát tại QTDND chưa thực sự được thuận lợi. KTNB hiện nay tại QTDND chủ yếu thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá còn chức năng xác nhận và tư vấn còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Trên thực tế, hoạt động của hệ thống QTDND rất nhạy cảm và luôn ẩn chứa nhiều rủi ro. Vì vậy việc phải xây dựng một hệ thống KSNB hiệu quả và thành lập bộ phận chuyên trách để theo dõi, đánh giá, rà soát để đưa ra giải pháp chấn chỉnh kịp thời những yếu kém nhằm giúp ngăn ngừa rủi ro xảy ra là một đòi hỏi cấp thiết. Với tầm quan trọng đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống KSNB và KTNB của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. So với những văn bản trước thì Thông tư số 44/2011/TT-NHNN có sự thay đổi, nâng tầm bộ phận kiểm soát và kiểm toán trong nhận thức và có xu hướng sát với chuẩn mực quốc tế, nhằm mục đích hướng đến sự thống nhất với thế giới.
Bên cạnh đó, để đảm bảo thực thi thông tư này, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 88/2019/NĐ-CP, ngày 14/11/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Trong đó, vi phạm quy định về KTNB, KSNB cũng như kiểm toán độc lập được quy định ở Điều 8 của nghị định này, mức phạt có thể lên tới 250.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để hệ thống KSNB và KTNB thực sự phát huy hiệu quả đối với hoạt động của TCTD, NHNN và các cơ quan quản lý chức năng khác cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết hơn các nội dung liên quan đến hệ thống KSNB và KTNB theo định hướng rủi ro đáp ứng nhu cầu của các QTDND.

2.1. Những kết quả công tác kiểm soát, KTNB tại QTDND
Công tác kiểm soát, KTNB tại các QTDND bước đầu cũng đã thu được một số kết quả:

Thứ nhất, việc nhận thức được vai trò của công tác kiểm soát, KTNB bước đầu được các QTDND quan tâm. Quy trình kiểm soát, KTNB được xây dựng và thực hiện theo hướng dẫn của NHNN đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tại các đơn vị. Các QTDND đã chú trọng đến việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghề nghiệp đảm nhận các phần hành nghiệp vụ phù hợp với chuyên môn. Nguồn nhân lực làm công tác kiểm soát, KTNB được chọn lọc và được các đơn vị cử đi học các lớp bồi dưỡng định kỳ và các lớp bồi dưỡng chuyên sâu.

Thứ hai, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động của các QTDND cũng không ngừng được tăng cường bảo đảm tốt cho mọi hoạt động. Đây chính là tiền đề quan trọng cho hoạt động của hệ thống QTDND nói chung và công tác kiểm soát, KTNB nói riêng hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển QTDND an toàn, vững chắc. Hệ thống máy vi tính tại các QTDND được trang bị đồng bộ, hiện đại và thống nhất sử dụng phần mềm thuận tiện cho việc giao dịch, trao đổi và lưu trữ dữ liệu thông tin. Công tác kiểm soát, KTNB tại nhiều đơn vị đã được hiện đại hóa bằng việc áp dụng những công cụ hỗ trợ công nghệ thông tin hiện đại vào quá trình kiểm soát, KTNB nhằm đạt được hiệu quả tốt hơn trong hoạt động.

Thứ ba, công tác kiểm soát, KTNB đã góp phần đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của các QTDND: (i) Về công tác KSNB, các QTDND đã chú trọng kiểm soát các bộ phận nghiệp vụ tại đơn vị, thực hiện kiểm soát đối với hội đồng quản trị (HĐQT), giám đốc, công tác nguồn vốn và sử dụng vốn một cách chặt chẽ nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời những sai phạm trong quá trình hoạt động, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất; (ii) Cùng với công tác kiểm soát, hoạt động KTNB tại nhiều QTDND đã phát huy vai trò của mình, thực hiện đánh giá độc lập về tính thích hợp, tính tuân thủ pháp luật và các cơ chế, chính sách của ngành đối với QTDND. Đồng thời, cũng đánh giá tính nghiêm túc, đúng đắn trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghiệp vụ tại QTDND cũng như tính đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KSNB của QTDND. Nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB, khắc phục tồn tại, nâng cao tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý và sử dụng tài sản trong hoạt động tại các QTDND.

Thông qua công tác kiểm soát, KTNB, các QTDND cũng đã phát hiện những sơ hở trong hoạt động, những rủi ro và tiềm ẩn rủi ro hoạt động của QTDND. Từ đó đề xuất với HĐQT có các biện pháp, nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của QTDND.

2.2. Nhận diện các rủi ro liên quan đến mất an toàn trong hoạt động của QTDND
Để giới hạn rủi ro ở mức chấp nhận được, nhà quản lý phải dựa trên các mục tiêu đã được xác định, tiến hành nhận dạng và phân tích rủi ro, nhận diện và phân tích những thay đổi trọng yếu, từ đó mới có thể quản trị được rủi ro.

Một là, mức vốn điều lệ còn thấp so với vốn pháp định (tối thiểu 1 tỷ đồng), sau nhiều kỳ hoạt động nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng này. Việc tăng, giảm vốn điều lệ một cách tùy tiện, tỷ lệ góp vốn và chuyển nhượng quá tỷ lệ % vốn điều lệ theo quy định.
Vốn điều lệ của QTDND là tổng số vốn do các thành viên góp và được ghi vào Điều lệ QTDND, là cơ sở để: (i) Thành lập QTDND; (ii) Bù lỗ trong kinh doanh; (iii) Tính toán các chỉ số tài chính bắt buộc; (iv) Là “tấm đệm” chống đỡ các rủi to xảy ra. Thực tế, hiện nay đối với một số QTDND có vốn điều lệ cũng như vốn tự có còn thấp hơn vốn pháp định nên ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của đơn vị.
Việc thay đổi vốn điều lệ thực hiện không theo quy định của NHNN về những thay đổi phải được NHNN chấp thuận. Tăng vốn điều lệ không đúng, có trường hợp chưa đạt hoặc vượt kế hoạch đã được NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chấp thuận bằng văn bản.
Pháp nhân/cá nhân góp vốn vào QTDND không tuân thủ theo các quy định của pháp luật về góp vốn. Thao túng QTDND, sợ loãng quyền sở hữu, mượn người khác đứng tên góp vốn khi đã vượt tỷ lệ quy định (10%/tổng vốn điều lệ).
Rút vốn, khấu trừ hoặc chuyển nhượng vốn góp của thành viên chưa có đơn đề nghị hoặc chưa được HĐQT phê duyệt theo quy định.
Còn tồn tại tình trạng thành viên ảo, góp vốn thành viên ảo, kể cả vốn điều lệ không đứng tên người sở hữu.
Việc định giá, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản góp vốn không được thực hiện theo quy định của pháp luật.
QTDND chưa hoặc không mở sổ theo dõi vốn góp xác lập tư cách thành viên, vốn góp thêm, chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn.

Hai là, về tổ chức và nhân sự, đặc biệt là HĐQT, giám đốc, ban kiểm soát xáo trộn thường xuyên. Việc bầu, bãi nhiệm các chức danh không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của NHNN, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh chồng chéo hạn chế tính độc lập và vô hiệu hóa vai trò kiểm soát trong mỗi chức danh lãnh đạo của QTDND.

Ba là, thiếu sự giám sát thường xuyên của đại hội thành viên. Đại hội thành viên chỉ mang tính hình thức là cơ quan quyền lực cao nhất.

Bốn là, không ban hành đủ văn bản quản lý nội bộ, văn bản quản lý nội bộ không đảm bảo hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.

Năm là, địa bàn hoạt động của QTDND vượt quá địa bàn cho phép của NHNN và giao dịch với khách hàng ngoài thành viên không đúng quy định. Tự ý mở rộng phạm vi hoạt động nghiệp vụ sai quy định như kinh doanh vàng bạc, bất động sản, hùn vốn vào các doanh nghiệp, bảo lãnh vốn vay,… dẫn đến ngoài khả năng kiểm soát của QTDND.

Sáu là, vi phạm các giới hạn đảm bảo an toàn hoạt động: (i) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động như vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8%; Vi phạm tỷ lệ khả năng chi trả; Vi phạm tỷ lệ mua sắm, đầu tư tài sản cố định; Vi phạm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung, dài hạn,… (ii) Vi phạm về huy động vốn và gửi tiền; (iii) Hạch toán sai tính chất tài khoản, vi phạm nguyên tắc thu – chi,…

Bảy là, nợ quá hạn đặc biệt là nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ và có chiều hướng gia tăn,g trong khi quỹ dự phòng rủi ro không đủ khả năng bù đắp. Lỗ kinh doanh chiếm tỷ trọng cao so với vốn tự có. Lỗ lũy kế từ >= 50% vốn tự có, dẫn đến kiểm soát đặc biệt.

2.3. Phân tích và đánh giá rủi ro
Sau khi đã nhận diện được rủi ro, QTDND cần tiến hành phân tích và đánh giá rủi ro. Quá trình phân tích thường bao gồm các bước sau: (i) Đánh giá tầm quan trọng của rủi ro hay nói cách khác là mức độ ảnh hưởng các rủi ro; (ii) Đánh giá khả năng (hay xác suất) rủi ro có thể xảy ra; (iii) Xem xét phương pháp quản trị rủi ro – chính là những hành động cần thiết thực hiện, để giảm thiểu rủi ro.

2.4. Quản lý rủi ro
Sau khi đánh giá rủi ro, QTDND không dừng lại ở đây là phải có biện pháp quản lý rủi ro thông qua các hoạt động kiểm soát và liên tục có sự giám sát, để đảm bảo các chính sách và thủ tục kiểm soát đủ mạnh và hữu hiệu, để có thể ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Muốn vậy, QTDND phải ban hành chính sách quản lý rủi ro và chính sách này phải đảm bảo các nội dung liên quan đến mục tiêu quản lý rủi ro đối với toàn bộ các hoạt động của QTDND và giải pháp, để đạt được mục tiêu. Vai trò quản lý rủi ro của HĐQT, đại hội thành viên, ban kiểm soát, bộ máy điều hành, bộ phận kinh doanh, bộ phận quản lý rủi ro và các bộ phận liên quan đến quản lý rủi ro; Khẩu vị rủi ro, quản lý hạn mức rủi ro (bao gồm cả chế tài đối với trường hợp vi phạm hạn mức rủi ro) trên cơ sở chiến lược kinh doanh của QTDND; Thời hạn định kỳ rà soát, đánh giá chính sách quản lý rủi ro (Hình 2).

Ngoài ra, chính sách quản lý rủi ro đảm bảo phải được rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung (nếu có) theo định kỳ hàng năm hoặc định kỳ ít hơn do QTDND quy định phù hợp với quy định của NHNN và với mục tiêu, chiến lược kinh doanh, trong từng thời kỳ của QTDND. Phải xác định tất cả các rủi ro trọng yếu để làm cơ sở cho việc xây dựng và vận hành hệ thống quản lý rủi ro; Được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thay đổi của môi trường kinh doanh, khuôn khổ pháp lý liên quan đến QTDND; Có tính kế thừa, liên tục để bảo đảm tính khả thi qua các chu kỳ kinh tế; Đảm bảo có đủ nguồn lực (tài chính, công nghệ thông tin, hệ thống thông tin quản lý và con người) để đạt được mục tiêu quản lý rủi ro; Có quy trình xây dựng chính sách quản lý rủi ro được quy định bằng văn bản phù hợp với thẩm quyền, trách nhiệm và năng lực của những người có liên quan (Hình 3, trang 63).

3. Những vấn đề tồn tại và giải pháp hoàn thiện kiểm soát, KTNB tại QTDND
Công tác kiểm soát, KTNB tại các QTDND có thể coi là một trong những hoạt động vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của QTDND. Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động kiểm soát, KTNB tại các QTDND vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như:

Thứ nhất, môi trường kiểm soát vẫn còn nhiều yếu tố không thuận lợi cho công tác kiểm soát, KTNB tại các QTDND
Môi trường kiểm soát, KTNB tại các QTDND bao gồm các nội dung cơ bản: quan điểm, cách thức điều hành của bộ máy lãnh đạo, xây dựng kế hoạch; tính trung thực và giá trị đạo đức; cơ cấu tổ chức bộ máy, hệ thống chính sách, quy chế, quy trình, thủ tục, chính sách về nhân sự, quan điểm của lãnh đạo QTDND về tầm quan trọng của hoạt động kiểm soát, KTNB. Mặc dù NHNN đã ban hành các thông tư quy định rõ ràng, cụ thể về bộ phận kiểm soát, KTNB tại các QTDND. Đối với QTDND, Ban Kiểm soát đóng vai trò của “cánh tay phải” của HĐQT, tuy nhiên sự phân cấp phân quyền tại một số QTDND còn chưa rõ ràng, chưa gắn với trách nhiệm cụ thể, vẫn có sự chồng chéo trong điều hành và tác nghiệp giữa các bộ phận tại các QTDND gây khó khăn trong việc nhận diện các rủi ro tiềm năng và có biện pháp phòng ngừa thích hợp.

Thứ hai, hoạt động kiểm soát, KTNB tại các QTDND còn chưa thực sự hiệu quả
Hiện nay, tại các QTDND có Ban Kiểm soát QTDND nhưng vai trò của cán bộ kiểm soát, KTNB còn mờ nhạt, chỉ đơn giản rà soát hoạt động thông thường, lập báo cáo định kỳ mà chưa đưa ra được cảnh báo đối với QTDND. Quy định về công tác kiểm soát, KTNB tại các QTDND đã được quy định rõ trong Thông tư số 44/2011/TT-NHNN. Tuy nhiên, có nhiều QTDND vẫn chưa phân tách được 2 mảng nghiệp vụ này, việc thực hiện còn chưa chặt chẽ và mang tính hình thức, lúng túng và thiếu hiệu quả. Do đó, công tác kiểm soát, KTNB tại các QTDND thực sự vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót, mới chủ yếu thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá còn việc đưa ra những cảnh báo rủi ro còn thiếu và yếu.

Công tác KSNB: Một bộ phận không nhỏ cán bộ kiểm soát tại các QTDND chưa làm tốt chức năng ngăn chặn giám sát mà chỉ thực hiện chức năng kiểm tra, phát hiện, đánh giá và xử lý các vấn đề đã phát sinh. Trong hoạt động kiểm soát các nguyên tắc phân công, phân nhiệm, bất kiêm nhiệm đôi khi còn chưa được áp dụng hợp lý.

Về công tác KTNB: Bộ phận KTNB tại các QTDND được thành lập nhưng nhiều cán bộ chưa am hiểu hết các phần hành nghiệp vụ nên việc thực hiện kiểm toán thực tế nhiều khi không hiệu quả. Việc thực hiện kiểm toán còn mang tính hình thức, chưa bài bản, chưa chuyên nghiệp, chưa đánh giá được thực trạng hoạt động của đơn vị. Việc phát hiện ngăn ngừa các tồn tại, sai sót trọng yếu chưa kịp thời nên chưa đưa ra được nhiều các kiến nghị đối với từng phần hành trong hoạt động của đơn vị. Bộ phận KTNB tại nhiều QTDND chưa đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các hệ thống, quy trình, quy định tại QTDND góp phần bảo đảm QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.

Thứ ba, trình độ cán bộ làm công tác kiểm soát, KTNB còn nhiều hạn chế, chưa được đào tạo một cách bài bản
Việc thực hiện các phần hành công việc chưa thực sự sâu sát, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm để rà soát tất cả các khâu hoạt động tại đơn vị, thụ động trong việc triển khai các kế hoạch kiểm soát, kiểm toán nên hiệu quả kiểm soát, kiểm toán chưa cao. Cán bộ làm công tác kiểm soát của các QTDND chưa có những cảnh báo, phát hiện kịp thời rủi ro trong các khâu, các bước thực hiện nghiệp vụ cũng như khâu bố trí cán bộ của QTDND. Hoạt động kiểm soát đột xuất còn hạn chế, trong quá trình kiểm soát, kiểm toán vẫn có sự ràng buộc giữa các cá nhân, vai trò của bộ phận kiểm soát, kiểm toán còn chưa được quan tâm đúng mức, quá trình hoạt động chịu sự chi phối chủ quan của cấp trên, sự phối hợp trong quan hệ giữa các bộ phận nghiệp vụ với bộ phận kiểm soát, kiểm toán còn chưa được nhịp nhàng thông suốt, bộ phận kiểm soát, kiểm toán chưa thể hiện được hết chức năng của mình.

Trên cơ sở những vấn đề còn tồn tại về công tác kiểm soát, kiểm toán tại các QTDND nhằm giúp hệ thống QTDND phát triển bền vững ngày 31/01/2019, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 209/QĐ-NHNN v/v phê duyệt Đề án củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 trong đó tập trung vào các vấn đề: (i) Rà soát, củng cố, chấn chỉnh lại toàn bộ hệ thống QTDND đảm bảo ổn định, an toàn, lành mạnh và hiệu quả; (ii) Việc tổ chức, hoạt động và thành lập QTDND phải đảm bảo bản chất của mô hình kinh tế tập thể với mục tiêu tương trợ giữa các thành viên, trên cơ sở liên kết địa phương hoặc liên kết ngành nghề; (iii) Đánh giá điều kiện nhu cầu cần thiết khách quan, khả năng tồn tại, đảm bảo an toàn đối với các QTDND; (iv) xây dựng cơ chế quản lý hệ thống QTDND theo quy mô; (v) Hoàn thiện cơ chế chính sách, nhằm tăng cường gắn kết trách nhiệm và quyền lợi giữa các thành viên của QTDND,… Để thực hiện được các mục tiêu đó, bản thân mỗi QTDND phải hoàn thiện nâng cao chất lượng các mảng hoạt động tại đơn vị trong đó đặc biệt coi trọng vai trò kiểm soát, KTNB.

4. Một số đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát, KTNB trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất, xây dựng môi trường kiểm soát, KTNB lành mạnh.
Một bộ phận KSNB sẽ hoạt động hiệu quả nhất, khi nó được hoạt động trong chính sách phát triển phù hợp với đặc điểm tình hình hoạt động của từng QTDND. Môi trường hoạt động có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả của các thủ tục kiểm soát, kiểm toán. Một môi trường tốt sẽ có khả năng phát huy hiệu quả, hạn chế những thiếu sót của các thủ tục kiểm soát. Trong quy chế hoạt động của QTDND cần cụ thể những nhiệm vụ của kiểm soát, KTNB thông qua điều lệ, quy chế, quy định kiểm soát tập trung vào một số yếu tố chủ chốt: (i) Ban lãnh đạo tại các QTDND cần nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm soát, KTNB tại đơn vị. Không ngừng xây dựng và củng cố văn hóa hoạt động của QTDND trong đó nhấn mạnh tính trung thực và các giá trị đạo đức cũng như trách nhiệm của từng cán bộ tại những bộ phận nghiệp vụ cụ thể tại QTDND; (ii) Xây dựng những tiêu chí đánh giá về kết quả hoạt động của KSNB: các chỉ tiêu truyền thống để đánh giá kết quả hoạt động này như số biên bản, kết luận được công bố, số sai phạm được phát hiện, hay số lượng kiến nghị trong từng cuộc kiểm tra… còn mang tính định tính; (iii) Các QTDND xây dựng hệ thống dữ liệu bao gồm các văn bản, quy định liên quan đến từng bộ phận, có kế hoạch phổ biến một cách rõ ràng, chi tiết đến từng cán bộ làm việc tại đơn vị đảm bảo mọi nhân viên đều có thể cập nhật và nắm bắt thông tin cần thiết giúp thực hiện trách nhiệm kiểm soát hiệu quả.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát, KTNB.
Các QTDND cần xây dựng chương trình kiểm soát, KTNB một cách đầy đủ trên cơ sở đặc điểm hoạt động, quy mô hoạt động của từng đơn vị. Chú trọng vào việc đánh giá các rủi ro và sự phù hợp của các thủ tục kiểm soát, kiểm toán của đơn vị. Do đó, mỗi QTDND cần hoàn thiện quy trình và phương pháp kiểm soát, nội dung kiểm toán nhằm đạt được mục tiêu là hoạt động an toàn, hiệu quả và tuân thủ đúng quy định của Nhà nước: (i) Về công tác KSNB: Các QTDND cũng cần tăng cường công tác KSNB định kỳ và đột xuất. Nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát đơn vị. Mục đích của việc tăng cường công tác KSNB định kỳ và đột xuất, nhằm phát hiện kịp thời và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra đảm bảo cho QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả, tuân thủ đúng các quy định pháp luật và NHNN; (ii) Công tác KTNB: Kế hoạch KTNB tại các QTDND cần được thực hiện một cách chặt chẽ, chuyên nghiệp đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ và chức năng của bộ phận KTNB, là công cụ quan trọng giúp QTDND ngăn chặn những gian lận và sai sót, đánh giá tính trung thực và hợp lý trong hoạt động của QTDND.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát, KTNB.
Trên cơ sở xác định tầm quan trọng của công tác kiểm soát, KTNB, các QTDND cần có kế hoạch phát triển đội ngũ một cách hợp lý đáp ứng các yêu cầu của mang nghiệp vụ, xác định nhu cầu về nguồn nhân lực cho bộ phận kiểm soát, KTNB đảm bảo năng lực nhân sự chất lượng.

Ngoài những rủi ro trong quá trình hoạt động còn có những rủi ro do trình độ hạn chế và sự gian lận của cán bộ. Vì vậy, cán bộ làm công tác kiểm soát, KTNB phải có trình độ và đạo đức nghề nghiệp tốt, tinh thần kiên định, khả năng thuyết phục cao, để ngăn ngừa vi phạm và xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi việc yêu nghề.

Tài liệu tham khảo

1. Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Luật các TCTD sửa đổi bổ sung 2017;
2. Nghị định số 88/2019/NĐ-CP, ngày 14/11/2019, Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
3. Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, ngày 23/01/2014 Quy định về Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND;
4. Thông tư số 04/2015/TT-NHNN, ngày 31/03/2015, Quy định về QTDND;
5. Thông tư số 31/2012/TT-NHNN, Quy định về Ngân hàng hợp tác xã;
6. Thông tư số 44/2011/TT-NHNN, ngày 29/12/2011, quy định về hệ thống KSNB và KTNB của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
7. Thông tư số 21/2019/TT-NHNN. Về sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về ngân hàng hợp tác xã, QTDND và quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND;
8. Bộ môn Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (2012), KSNB, NXB Phương Đông, TP.HCM.
9. Vũ Hữu Đức, Nguyễn Phan Quang, Diệp Quốc Huy (1999), KTNB-Khái niệm và quy trình, NXB Thống kê, Hà Nội.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *