Nghiên cứu trao đổi

Hoạt động khoa học và công nghệ – Thực trạng về Chính sách tài chính, Thuế, Quan điểm và yêu cầu của việc hoàn thiện

Tiêu đề Hoạt động khoa học và công nghệ – Thực trạng về Chính sách tài chính, Thuế, Quan điểm và yêu cầu của việc hoàn thiện Ngày đăng 2024-02-22
Tác giả Admin Lượt xem 964

Thanh Tùng

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) nhằm góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững, trong giai đoạn 2021- 2030. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng nhấn mạnh “KH&CN, giáo dục và đào tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia”, đồng thời trọng tâm vào vấn đề nguồn lực tài chính cho phát triển KH&CN. Cần phân tích các yêu cầu về chính sách cho phát triển KH&CN trên cơ sở nhìn nhận từ kinh nghiệm và xu hướng các nước; từ thực trạng và kinh nghiệm hoạch định chính sách tài chính và chính sách huy động, sử dụng nguồn lực tài chính cho KH&CN ở Việt Nam. Từ đó, nhận diện các vấn đề đặt ra các yêu cầu chính sách và và kiến nghị giải pháp về chính sách tài chính cho phát triển KH&CN giai đoạn 2021 – 2030.

Từ khóa: khoa học – công nghệ, chính sách tài chính, cơ chế tài chính, thuế.

  1. Hoạt động khoa học công nghệ và yêu cầu đặc thù về cơ chế tài chính, chính sách thuế

Hoạt động KH&CN là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng những kiến thức đó để tạo ra những ứng dụng mới.

Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm các hoạt động: nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN. Trong đó:

Nghiên cứu khoa học: là loại hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng;

Phát triển công nghệ: là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm;

Triển khai thực nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;

Sản xuất thực nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống;

Dịch vụ KH&CN: là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng trí thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn.

Rất cần các chính sách đặc thù để phát triển KH&CN thực sự là động lực cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững, đồng thời đảm bảo để KH & CN giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia. 

  1. Đặc trưng kinh tế Việt Nam

Hoạt động kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây đã có những dấu ấn nhất định. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam so với một số nước trong khu vực đạt mức độ cao và tương đối ổn định. Từ một trong các quốc gia nghèo vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã có thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt mức 1.160 USD, trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình (thấp). Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 là 2.228 USD và năm 2016 đạt 2.445 USD, cao gấp gần 8,5 lần so với năm 1995. GDP bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Mục tiêu đến năm 2030 là 7.500 USD/ người

Nhìn chung, Việt Nam tương tự như nhiều nước Đông Nam Á khác, với sự thay đổi cơ cấu từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ ngành nông nghiệp trong GDP đã giảm đáng kể từ gần 40% trong những năm đầu thập niên 90 chỉ còn khoảng 20% từ đầu những năm 2000, trong khi đó khu vực công nghiệp và dịch vụ thì ngược lại. Tỷ trọng xuất khẩu dựa vào tài nguyên và lao động giảm, trong khi đó xuất khẩu dựa vào KH&CN, thâm dụng công nghệ và công nghệ cao đã tăng dần lên, đặc biệt là tỷ lệ (%) xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.

Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang tiến đến thời điểm có tính chất quyết định về phát triển kinh tế với nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình”, và xa hơn là không vượt qua được “trần kính” trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đòi hỏi, Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới, ứng dụng KH&CN một cách nhanh nhất vào sản xuất kinh doanh, tiến tới làm chủ công nghệ và chế tạo ra những sản phẩm có chất lượng.

Hoạt động nghiên cứu và triển khai (NC&TK) của doanh nghiệp (DN): một số nghiên cứu cấp độ DN tại Việt Nam gần đây cho rằng, hầu hết các DN không tập trung vào phát triển năng lực công nghệ trong thời gian dài và quá trình học hỏi công nghệ chậm và thụ động. Ngay cả những DN quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư vào hoạt động KH&CN so với tổng doanh thu của DN không nhiều. Ít DN có hoạt động đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Các DN Việt Nam, thậm chí nhiều DN lớn không mặn mà với phát triển năng lực công nghệ tự thân (in-house R&D). Đa số DN dựa vào công nghệ nhập khẩu dưới hình thức máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ theo phương thức chìa khoá trao tay từ nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài.

  1. Các tổ chức khoa học công nghệ

Theo thống kê, cả nước có gần 3.000 tổ chức KH&CN, trong đó có các tổ chức KH&CN công lập, viện Hàn lâm, Đại học quốc gia và các Trường đại học. Ở Việt Nam các trường đại học và viện nghiên cứu là những tổ chức thực hiện chủ yếu các hoạt động KH&CN. Tính đến 31/12/2022 cả nước có 714 DN KH&CN đăng ký.

Thực tế, có nhiều DN mặc dù đủ điều kiện công nhận DN KH&CN nhưng lại không nộp đơn đăng ký. Nhiều DN đã bắt đầu tự tăng cường năng lực công nghệ của mình bằng cách hợp tác với các nhóm NC&TK từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) hoạt động trong các mảng khoa học công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Vì vậy, lĩnh vực hoạt động của các tổ chức KH&CN khá đa dạng, từ khoa học pháp lý, luật pháp, khoa học quản lý kinh tế, công nghiệp xây dựng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, môi trường, giao thông, thủy lợi, nông nghiệp nông thôn, truyền thông và vận động chính sách,… Không ít tổ chức hoạt động đồng thời trong nhiều lĩnh vực. Đến nay, có trên 100 tổ chức KH&CN đang hoạt động.

  1. Đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ

Đầu tư vào KH&CN tại Việt Nam chiếm khoảng hơn 0,6% GDP. Trong giai đoạn vừa qua, bình quân hàng năm ngân sách Nhà nước (NSNN) chi cho KH&CN chiếm khoảng 1,4% – 2%  tổng chi NSNN. Trong tổng chi NSNN cho KH&CN thì tỷ lệ chi cho NC&TK chiếm trên 40%, còn lại là chi cho đầu tư phát triển. Đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước cho KH&CN là các đầu tư từ DN, nước ngoài và các nguồn khác. Nhiều DN Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến vai trò của KH&CN (nhân tố động lực cho đổi mới và cạnh tranh). Quỹ phát triển KH&CN tại các DN đã trích lập hàng tỷ USD, nhưng rất khó giải ngân, trong khi nhu cầu nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ngày càng lớn.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021- 2030 đã khẳng định: Phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo là một nội dung có tính đột phá chiến lược để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã khởi phát và nền kinh tế số đã trở thành một trong những xu hướng phát triển chủ yếu của thế giới. DN ứng dụng KH&CN, chuyển đổi số sẽ là chìa khóa giúp phục hồi và phát triển sản xuất bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, trụ vững trong chuỗi cung ứng.

Nếu như thời gian trước, tỷ lệ đầu tư cho KH&CN, đổi mới sáng tạo là 70- 30 (tức là 70% đến từ Nhà nước và 30% đến từ DN), thì nay, con số này đã nâng lên thành 50- 50. Đầu tư cho KH&CN và đổi mới sáng tạo sẽ giúp DN nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tối ưu hóa nguồn vốn đầu tư, từng bước phục hồi sản xuất, kinh doanh. Trong định hướng xây dựng đổi mới sáng tạo quốc gia, DN sẽ đóng vai trò làm trung tâm đổi mới. Việc kết hợp chặt chẽ giữa DN và các viện nghiên cứu, trường đại học sẽ thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và nhanh chóng đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Nhân lực KH&CN: cả nước có khoảng 5 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có hàng chục nghìn tiến sỹ hàng trăm nghìn thạc sỹ. So với năm 1996, đội ngũ này tăng hơn gần 5 lần (trung bình 11,6%/năm). Mặc dù, nhân lực NC&TK của Việt Nam có tăng trong những năm qua, nhưng còn thấp so với các nước phát triển, cả về giá trị tuyệt đối và tỷ lệ trên dân số.

  1. Hoạt động khoa học công nghệ và hạn chế về chính sách

Có thể nhận thấy, ở Việt Nam:

Các chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ không được ưu tiên cao và hầu như không được lồng ghép trong các chính sách công nghiệp, đầu tư và thương mại: chính sách thúc đẩy, khuyến khích tạo ra và phát triển công nghệ gần đây mới được đề cập. Tuy nhiên, khá nhiều chính sách (đặc biệt là chính sách thuế và tài chính) còn nhiều điểm chưa thích hợp. Chính sách công nghiệp ít quan tâm đến phát triển năng lực công nghệ bản địa như là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hóa. Chính sách đầu tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hướng nhiều vào tạo việc làm. Trong chính sách thương mại, công cụ quan trọng nhất là thuế quan, không được sử dụng một cách hiệu quả để thúc đẩy học hỏi công nghệ.

Tương tác và liên kết trong hệ thống còn quá ít liên kết giữa người sử dụng – người sản xuất: ở Việt Nam, sự liên kết yếu hoặc thậm chí ít có liên kết giữa người sử dụng và người sản xuất. Năng lực công nghệ của DN tương đối yếu, chính vì vậy mà tương tác trên nền tảng đổi mới có những hạn chế nhất định.

Hợp tác giữa các DN trong cùng ngành cũng như giữa các DN khác ngành chưa thực sự phát triển: chưa hình thành và phát triển những chùm đổi mới theo đúng nghĩa. Không chỉ là sự tương tác dọc theo chuỗi giá trị yếu, mối quan hệ ngang giữa các DN trong cùng ngành hoặc giữa các DN khác ngành cũng không thực sự phát triển.

Mức độ lan tỏa công nghệ từ các DN FDI sang các DN Việt Nam thấp: có thể thấy, khả năng liên kết để phát triển công nghệ giữa các DN trong nước và các DN FDI khá hạn chế. Không có nhiều DN FDI phát triển công nghệ mới tại Việt Nam. Các DN FDI không tập trung mạnh vào phát triển các nhà thầu Việt Nam hoặc hỗ trợ kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương. Lý do là sự không đáp ứng và lạc hậu của ngành công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, nhiều DN FDI thiếu thiện chí và nỗ lực để đầu tư nguồn lực và thời gian cho việc phát triển các nhà cung cấp, nhà thầu địa phương.

Liên kết giữa DN và trường đại học, viện nghiên cứu: các trường đại học, viện nghiên cứu ở Việt Nam không có nhiều liên kết với DN. Mối liên kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và DN dựa nhiều trên các kết nối cá nhân chứ không phải là cam kết của tổ chức hay từ nhu cầu của thực tiễn. Thông tin phục vụ đổi mới của DN xuất phát từ trường đại học, viện nghiên cứu chiếm tỷ lệ thấp.

Đào tạo ít xuất phát từ nhu cầu DN: hệ thống đào tạo, chương trình đào tạo của các trường đại học của Việt Nam đáp ứng mức độ thấp nhu cầu đòi hỏi từ khu vực DN, đặc biệt là khu vực DN FDI.

Hệ thống chính sách của Nhà nước ít được các DN biết đến, chưa có nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi DN đầu tư phát triển công nghệ, tiến hành phát triển công nghệ tự thân, hoạt động NC&TK: rất ít DN biết được thông tin về sự tồn tại của các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước đối với DN trong việc phát triển công nghệ, tiến hành NC&TK để thích nghi công nghệ cũng như tạo ra công nghệ mới. Chính sách ưu đãi có xu hướng tập trung nhiều vào KH&CN chưa theo yêu cầu của DN. Khả năng tiếp cận của DN đến các ưu đãi của Nhà nước khó khăn, với nhiều thủ tục hành chính.

  1. Cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ

Nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động KH&CN của đất nước, nhiều cơ chế, chính sách pháp luật tài chính liên quan đến hoạt động KH &CN đã được ban hành tạo động lực quan trọng cho KH&CN phát triển.

Về cơ chế tài chính, cùng với quá trình phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua Việt Nam luôn quan tâm đến việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho phát triển KH&CN. Trong mỗi giai đoạn, cơ chế chính sách và sự đầu tư cho phát triển KH&CN được Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ KH&CN ban hành đều bám sát yêu cầu thực tiễn. Những giải pháp chính trong đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho hoạt động KH&CN gồm: đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho KH&CN; đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế phân bổ NSNN…

Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN và Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 về chiến lược phát triển KH&CN. Theo đó, định hướng đổi mới được xác định cụ thể là: phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt trên 2%/GDP; huy động các nguồn vốn ngoài NSNN. Luật Thuế Thu nhập DN quy định, DN được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế thu nhập DN để thành lập Quỹ KH&CN của DN hoặc đưa vào Quỹ Phát triển KH&CN của địa phương. Đồng thời, xây dựng cơ chế để khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán nguồn NSNN đầu tư cho KH&CN, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả đầu tư; xây dựng quy định về nguyên tắc, tiêu chí và quy trình phân bổ kinh phí ngân sách đầu tư cho KH&CN; xây dựng cơ chế có thể điều tiết ngân sách KH&CN đã phân bổ phù hợp với nhu cầu, năng lực và tình hình thực tế sử dụng ngân sách; đổi mới quy trình, thủ tục lập kế hoạch ngân sách KH&CN hàng năm; xây dựng lộ trình tăng dần tỷ trọng vốn ngân sách sự nghiệp khoa học thông qua các quỹ như Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia.

Hàng năm, NSNN luôn ưu tiên bố trí đủ 2% tổng chi NSNN dành cho KH&CN, tốc độ tăng chi bình quân hàng năm là 18,6%, tương đương với tốc độ tăng tổng chi NSNN. Đến nay, NSNN vẫn là nguồn lực chủ đạo, chiếm 65 – 70% tổng đầu tư toàn xã hội cho hoạt động KH&CN. Cùng với mức chi 2% tổng chi NSNN dành cho KH&CN, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách tài chính ưu đãi phù hợp với đặc thù của KH&CN. Bên cạnh đó, đối với các nhiệm vụ đột xuất qua các Quỹ KH&CN, hàng năm NSNN bố trí hàng trăm tỷ đồng vốn điều lệ cho Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia.

Trong quá trình thực hiện dự toán, hiện đã áp dụng cơ chế cấp phát kinh phí linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của hoạt động KH&CN. Việc cấp kinh phí có thể được thực hiện tại bất cứ thời điểm nào trong năm, không bị giới hạn bởi thời gian thẩm tra, phân bổ NSNN hàng năm.

Các nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước được xem xét tạm ứng ở mức cao. Có thể đạt dưới 70% tổng dự toán của nhiệm vụ; sau khi đã thanh quyết toán 50% mức kinh phí đã tạm ứng, các nhiệm vụ này tiếp tục được tạm ứng các đợt tiếp theo, tạo điều kiện cho các nhà khoa học chủ động trong việc sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, các cơ chế, chính sách về dự toán và sử dụng ngân sách KH&CN cũng được đổi mới theo hướng: xây dựng định mức và quy định bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên của các tổ chức KH&CN công lập trong dự toán các nhiệm vụ KH&CN và nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng; hoàn thiện cơ chế khoán kinh phí (khoán theo sản phẩm cuối cùng); đơn giản hóa thủ tục thanh quyết toán; điều chỉnh và bổ sung các nội dung chi cũng như định mức kinh phí theo từng nội dung chi của nhiệm vụ KH&CN (mua sắm trang thiết bị, mua quyền sở hữu trí tuệ, mua thiết kế, bí quyết công nghệ, phần mềm, thuê chuyên gia, truyền thông, kinh phí dự phòng…); nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn và một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác tài chính KH&CN.

  1. Các quy định của Luật

Để tận dụng cơ hội hợp tác quốc tế phát triển KH&CN trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng, rất cần có những chính sách quản lý khoa học hợp lý. Về đầu tư từ NSNN cho KH&CN, Luật KH&CN  khẳng định rõ mức chi ngân sách hàng năm cho KH&CN từ 2% trở lên và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KH&CN. Việc giao kinh phí sẽ áp dụng cơ chế khoán, cơ chế Nhà nước đặt hàng và cơ chế Quỹ để triển khai các nhiệm vụ KH&CN, tránh được việc phải lo quyết toán hàng năm. Ngoài ra, những dự án quan trọng đặc biệt của quốc gia sẽ áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt.

Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 và các Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018; Luật số 07/2022/QH15 ngày 16/6/2022 đã quy định các chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân, đặc biệt là DN đầu tư để đổi mới công nghệ trong sản xuất và kinh doanh.

Có thể nói, Luật đã có những quy định mang tính đột phá để khắc phục một số tồn tại trong hoạt động KH&CN, cụ thể:

(1) Luật hóa tỷ lệ đầu tư tối thiểu 2% từ NSNN hàng năm dành cho KH&CN, tăng cường khoán chi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN;

(2) Hệ thống hóa việc phân cấp quản lý và thực hiện các nhiệm vụ KH&CN;

(3) Bổ sung các quy định về việc thành lập các tổ chức KH&CN; thúc đẩy việc thành lập và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức KH&CN; ngoài công lập và DN KH&CN;

(4) Bổ sung các ưu đãi nhằm thu hút các cá nhân tham gia hoạt động KH&CN;

(5) Luật hóa các quy định nhằm thúc đẩy các DN thực hiện hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ và phát triển thị trường KH&CN.

  1. Chính sách Thuế đối với hoạt động khoa học công nghệ

Lĩnh vực KH&CN là lĩnh vực đặc biệt bởi các yếu tố: tính mới của dịch vụ; ảnh hưởng rộng và hàm lượng tri thức kết tinh lớn. Tại Việt Nam, với quan điểm phát triển mạnh kinh tế tri thức, nên về cơ bản, các dịch vụ liên quan đến KH&CN được khuyến khích phát triển. Chính sách thuế đối với lĩnh vực này, cũng đã quán triệt quan điểm chủ đạo đó.

Thứ nhất, về cơ chế chung

Hiện tại, có nhiều cách tổ chức hoạt động KH&CN nhưng tựu chung có 2 nhóm chủ yếu:

Một là, nhóm các cơ sở sự nghiệp công lập (các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp…) tham gia nghiên cứu, phát triển hoặc cung cấp các dịch vụ KH&CN…

Hai là, nhóm các tổ chức (cá nhân) có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân hoạt động hoặc cung cấp dịch vụ KH&CN theo các quy định về đăng ký kinh doanh.

Nếu như nhóm thứ nhất phát sinh các dịch vụ KH&CN trên cơ sở (hay thông qua) các hoạt động đào tạo hoặc dạy nghề thì nhóm thứ hai làm dịch vụ KH&CN một cách chuyên nghiệp hơn. Điều tất nhiên là, trong các cơ sở sự nghiệp cũng có thể thành lập các tổ chức KH&CN trực thuộc chuyên cung cấp các dịch vụ KH&CN theo yêu cầu của xã hội.

Tương ứng với hai nhóm hoạt động KH&CN nêu trên có các cơ chế tài chính điều chỉnh khác nhau. Các dịch vụ KH&CN trong các cơ sở sự nghiệp công lập thực hiện theo cơ chế các đơn vị sự nghiệp có thu (Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ); còn các tổ chức chuyên hoạt động KH&CN thành lập có đăng ký kinh doanh theo quy định thì thực hiện theo cơ chế tài chính khác: Với các DN nói chung thì theo Luật DN hoặc đối với các tổ chức KH&CN công lập thì theo quy định tại Nghị định của Chính phủ.

Thứ hai, về Thuế Giá trị gia tăng (GTGT)

Điều 10 Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, quy định: ‘’Đơn vị sự nghiệp có các hoạt động dịch vụ phải đăng ký, kê khai, nộp đủ các loại thuế và các khoản khác (nếu có), được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật”.

Điểm 2.15 Mục II Phần B Thông tư 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GTGT thì: “Dịch vụ KH&CN là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ” thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 5%. Như vậy, các đơn vị sự nghiệp có phát sinh các dịch vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ thì các dịch vụ này sẽ chịu thuế với suất thuế GTGT là 5%.

Mặt khác, Khoản 21 Mục II Phần A Thông tư số 129/2008/ TT-BTC của Bộ Tài chính lại quy định dịch vụ “chuyển giao công nghệ” (theo Luật Chuyển giao công nghệ) thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Như vậy có 2 loại hình chịu điều tiết về thuế GTGT khác nhau. Có thể thấy, xét về mặt quy trình thì mảng dịch vụ “nghiên cứu và phát triển khoa học” đứng vai trò khâu trước, “đầu tầu” và “khắc khổ” hơn, thế nhưng nó lại là đối tượng chịu thuế GTGT, trong khi việc “chuyển giao công nghệ” chỉ là khâu sau thì không chịu thuế. Qua thực tiễn quản lý thuế, đã có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này. Theo chúng tôi nếu có thể, nên quy định điều tiết thuế GTGT thống nhất cho 2 loại dịch vụ này, có như vậy vừa đảm bảo tính logic về điều tiết thuế nói chung, vừa tránh việc so sánh về sự thiếu công bằng.

Thứ ba, về Thuế Thu nhập DN (TNDN)

Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc đối tượng ưu đãi thuế. Tuy nhiên, với quy định hiện hành về thuế TNDN thì chỉ những tổ chức KH&CN hoặc các DN mới thành lập thuộc các loại hình này, các cơ sở nằm trên địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn (hoặc đặc biệt khó khăn) thì mới được ưu đãi về thuế TNDN. Ngoài ra, các dự án hay hoạt động KH&CN từ các cơ sở khác thì không thuộc phạm vi được ưu đãi thuế (Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi  hành một số điều của Luật thuế TNDN và Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 Hướng dẫn thi hành Nghị định 124/2008/NĐ-CP). Như vậy có thể thấy, với các dự án KHCN có tính chất như nhau thậm chí giống hệt nhau, nhưng do các cơ sở thực hiện khác nhau thì sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN khác nhau.

  1. Những ưu đãi về thuế đối với hoạt động khoa học công nghệ

9.1. Về quy định của Luật

Điều 64 Mục 4 Chương VI Luật KH&CN quy định các trường hợp sau đây được hưởng chính sách ưu đãi về thuế, theo quy định của pháp luật về thuế:

Thứ nhất, thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;

Thứ hai, thu nhập từ sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam; sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm;

Thứ ba, DN công nghệ cao, DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và một số hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao;

Thứ tư, dịch vụ KH&CN;

Thứ năm, máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ;

Thứ sáu, kinh phí tài trợ của tổ chức, cá nhân cho hoạt động nghiên cứu khoa học; khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động nghiên cứu khoa học;

Thứ bảy, chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;

Thứ tám, các trường hợp khác được quy định tại các luật về thuế.

9.2. Về Thuế TNDN đối với hoạt động khoa học công nghệ

Thông tư số 78/2014/TT-BTC, ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP, ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN quy định phương pháp tính thuế tại Khoản 5 Điều 3:

“Đơn vị sự nghiệp, tổ chức khác không phải là DN thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, DN nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp có hoạt động kỉnh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu Thuế TNDN mà các đơn vị này xác định được doanh thu nhưng không xác định được chỉ phí, thu nhập của hoạt động kinh doanh thì kê khai nộp Thuế TNDN tính theo tỷ lệ % trên doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ, cụ thể như sau:

– Đối với dịch vụ (bao gồm cả lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay): 5%.

– Riêng hoạt động giáo dục, y tế biểu diễn nghệ thuật: 2%.

– Đổi với kinh doanh hàng hóa: 1%.

– Đối với hoạt động khác: 2%.

Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 của Chính phủ sửa đổi và bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ, quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ về DN KH&CN:

Khoản 5 Điều 1, quy định được hưởng thuế suất ưu đãi, miễn thuế, giảm thuế như đối với DN KH&CN.

Khoản 3 Điều 2, được miễn, giảm Thuế TNDN như DN thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ kể từ khi có thu nhập chịu thuế với điều kiện: doanh thu của các sản phẩm, hàng hóa hình thành từ kết quả KH&CN trong năm thứ nhất từ 30% tổng doanh thu trở lên, năm thứ hai từ 50% tổng doanh thu trở lên và năm thứ ba trở đi từ 70% tổng doanh thu trở lên của DN KH&CN.

DN KH&CN không được miễn, giảm Thuế TNDN đối với năm tài chính không đáp ứng được điều kiện về tỷ lệ doanh thu nêu trên.

Thông tư Liên tịch số 36/2011/TTLT-BKH&CN-BTC-BNV ngày 26/12/2011, sửa đổi và bổ sung Thông tư Liên tịch số 12/2006/TTLT-BKH&CN-BTC-BNV, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ, quy định cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập:

Khoản 12 Điều 1, sửa đổi Khoản 1 Mục VIII, như sau:

9.3. Nguyên tắc ưu đãi về tài chính đối với các tổ chức KH&CN chuyển đổi

Các tổ chức KH&CN khi chuyển đổi sang loại hình tổ chức tự trang trải kinh phí hoạt động được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, được hưởng những ưu đãi về tài chính đối với hoạt động KH&CN và các ưu đãi về thuế như đối với các DN KH&CN theo quy định pháp luật hiện hành.

Thông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKH&CN-BTC-BNV ngày 10/9/2012:

Khoản 9 Điều 1, sửa đổi và bổ sung điểm 1.2 Khoản 1 Mục III, như sau:

1.2. Mức ưu đãi Thuế TNDN

DN KH&CN được hưởng chế độ ưu đãi Thuế TNDN như DN thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cụ thể như sau:

  1. a) DN KH&CN được áp dụng mức thuế suất Thuế TNDN là 10% trong thời gian 15 năm, từ năm đầu tiên DN có doanh thu từ hoạt động KH&CN.
  2. b) DN KH&CN được miễn Thuế TNDN trong thời gian 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo, kể từ năm đầu tiên DN KH&CN có thu nhập chịu thuế.

Trong thời gian được hưởng ưu đãi về Thuế TNDN, năm nào DN KH&CN có đủ điều kiện về tỷ lệ doanh thu nêu trên thì được miễn hoặc giảm Thuế TNDN; năm nào không đạt điều kiện về tỷ lệ doanh thu thì không được miễn, giảm thuế và phải nộp Thuế TNDN theo mức thuế suất hiện hành.

Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014.

Tại khoản 7 Điều 1 quy định Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi quy định tại Điều này được tính từ năm đầu tiên dự án đầu tư mới của DN có doanh thu; đối với DN công nghệ cao, DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận là DN công nghệ cao, DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đối với dự án ứng dụng công nghệ cao được tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận dự án ứng dụng công nghệ cao”.

Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013:

Điểm b khoản 1 Điều 15 và điểm a khoản 1 Điều 16 “Điều 15. Thuế suất ưu đãi quy định:

  1. Thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với:
  2. b) Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; …;

“Điều 16. Miễn thuế, giảm thuế

  1. Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với:
  2. a) Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định này;”.

Tại điểm c khoản 4 Điều 1 Quyết định số 870/QĐ-UBND ngày 13/4/2015 của UBND tỉnh Bình Dương, phê duyệt của Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng sang hoạt động theo cơ chế tự trang trải kinh phí, theo quy định tại Nghị định số 115/2005/NĐ-CP:

“c) Được hưởng mọi ưu đãi về hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định này.”  

9.4. Về thuế môn bài

Thông tư số 42/2003/TT-BTC ngày 07/05/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung, sửa đổi Thông tư số 96/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 75/2002/NĐ-CP ngày 30/08/2002 của Chính phủ về việc điều chỉnh mức thuế môn bài quy định:

Khoản 1 – Thay thế điểm i mục i của Thông tư số 96/2002/TT-BTC và Thông tư số 113/2002/TT-BTC như sau:,

Các tổ chức kinh tế bao gồm:

Các DN Nhà nước, Công ty cồ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, DN tư nhân, DN hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tổ chức và cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hộỉ, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác và tổ chức kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập khác.

9.5. Về Thuế Xuất nhập khẩu

Nghị định 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc miễn thuế và những biện pháp thi hành miễn thuế hàng hóa nhập khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

Cụ thể, trong Nghị định nêu rõ đối tượng được miễn thuế gồm hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KH&CN, đổi mới công nghệ được miễn thuế nhập khẩu theo quy định.

Căn cứ để xác định máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KH&CN, đổi mới công nghệ thực hiện theo quy định của Bộ KH&CN.

Ngoài ra, về danh mục hoặc tiêu chí xác định tài liệu, sách báo khoa học chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KH&CN, đổi mới công nghệ cũng được thực hiện theo quy định của Bộ KH&CN.

Về trách nhiệm của Bộ KH&CN trong nghị định này là ban hành tiêu chí, để xác định phương tiện vận tải chuyên dùng cần thiết cho hoạt động dầu khí; phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất của dự án đầu tư và phương tiện vận tải trong dây chuyền công nghệ phục vụ trực tiếp cho hoạt động đóng tàu.

Đồng thời, xác định các tiêu chí về tài liệu, sách báo, tạp chí khoa học chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo DN KH&CN đổi mới công nghệ; máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KH&CN và đổi mới công nghệ trong nước đã sản xuất được.

9.5. Dự kiến sửa đổi các Luật Thuế trong thời gian tới

Dự án Luật sửa 5 Luật Thuế do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo đã thể hiện nhiều nội dung sửa đổi quan trọng, trong đó những nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN thể hiện nhiều đề xuất mới về chính sách liên quan đến ưu đãi thuế đối với lĩnh vực KH&CN và công nghệ cao.

Theo Bộ Tài chính, bám sát mục tiêu cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội. Đồng thời, tiếp tục thực hiện Chiến lược Cải cách hệ thống thuế Việt Nam đến năm 2020 đối với Thuế TNDN theo hướng: Đơn giản hóa chính sách ưu đãi thuế theo hướng hẹp về lĩnh vực, tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có GTGT lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, Luật Thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển KH&CN, trong đó dành nhiều ưu đãi ở mức cao nhất đối với lĩnh vực này như: miễn thuế, giảm thuế; ưu đãi về thuế suất, về thời gian miễn, giảm thuế và trích lập “Quỹ phát triển KH&CN”. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN (có hiệu lực thi hành từ 01/12/2014). Trong đó, tại khoản 2 Điều 20 quy định DN KH&CN được hưởng chế độ miễn, giảm Thuế TNDN như DN đầu tư vào khu công nghệ cao theo quy định của pháp luật về Thuế TNDN và các văn bản pháp luật có liên quan.

Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, quy định đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, bao gồm: DN công nghệ cao, DN KH&CN, tổ chức KH&CN theo quy định của pháp luật về và pháp luật về KH&CN.

Các quy định trên cho thấy, với quy định của Nghị định số 95/2014/NĐ-CP sẽ tạo thêm một mức ưu đãi mới dành riêng cho DN KH&CN (chỉ hưởng miễn thuế, giảm thuế, miễn thuế trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; không áp dụng thuế suất ưu đãi). Thực tế, quy định này có bất cập là chưa tạo ra sự ưu đãi bình đẳng cho các DN hoạt động trong lĩnh vực KH&CN,… Vì DN có dự án đầu tư mới vào khu công nghệ cao, ngoài hưởng chế độ miễn và giảm Thuế TNDN thì còn được hưởng ưu đãi về thuế suất.

Nghị định số 95/2014/NĐ-CP chưa quy định về thời điểm bắt đầu tính ưu đãi thuế của DN KH&CN.

Mặt khác, Luật KH&CN hiện hành không quy định rõ ràng trong việc xác định TNDN lại quy định hoạt động này được hưởng ưu đãi ở mức cao như nêu trên. Trong khi, Điều 16 Luật Đầu tư số 67/2015/QH13 (có hiệu lực từ 01/7/2015), cũng chỉ sử dụng các thuật ngữ “Hoạt động công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; hoạt động nghiên cứu và phát triển” là ngành nghề ưu đãi đầu tư.

  Thực tế xử lý cho thấy, hầu hết không có trường hợp xác định ưu đãi theo điều kiện thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục, cơ quan chịu trách nhiệm xác định điều kiện dự án đầu tư mới nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong thực tế.

9.6. Về Thuế thu nhập cá nhân

Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ th

Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) tại Việt Nam giảm 50% số Thuế TNCN phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực CNTT.

Nghị quyết số 41 của Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng CNTT tại Việt Nam, nêu rõ để nâng cao sức cạnh tranh của DN CNTT, đẩy mạnh thu hút đầu tư phục vụ cho phát triển CNTT theo các mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cần thiết phải có thêm các chính sách hỗ trợ. Trong đó, có chính sách ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy hơn nữa ứng dụng và phát triển CNTT tại Việt Nam.

Theo Nghị quyết này, với các giải pháp về chính sách ưu đãi thuế thuộc thẩm quyền của Quốc hội, bổ sung thu nhập của DN từ thực hiện các dự án: sản xuất sản phẩm nội dung thông tin số, dịch vụ phần mềm, sản xuất sản phẩm CNTT trọng điểm, dịch vụ khắc phục sự cố an toàn thông tin, bảo vệ an toàn thông tin được ưu đãi Thuế TNDN như mức đang áp dụng đối với dự án sản xuất sản phẩm phần mềm theo quy định của Luật Thuế TNDN.

Đồng thời, giảm 50% số thuế TNCN phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân, nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực CNTT, là đội ngũ những người có trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT; dịch vụ công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT, quản lý hoạt động công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT; vận hành các thiết bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT; quản lý an toàn hệ thống thông tin.

Trường hợp dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực CNTT cần đặc biệt khuyến khích đầu tư nêu trên có sử dụng thường xuyên trên 1.000 lao động (kể cả trường hợp dự án đã hết thời gian 15 năm hưởng thuế suất 10%), được kéo dài thêm thời gian áp dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm.

  1. Những bất cập tồn tại và kiến nghị

Có thể nói, các nhóm giải pháp tài chính cho hoạt động KH&CN khá linh hoạt nhưng vẫn còn những bất cập và vướng mắc trong thực hiện. Vướng mắc không phải vì không có tiền mà các đề tài và nhiệm vụ khoa học phải qua rất nhiều khâu, từ lựa chọn và thẩm định cho đến phê duyệt đề tài. Nhiều cơ chế, chính sách đã được thực hiện theo hướng hỗ trợ thuận nhất cho hoạt động KH&CN, nhưng quy trình xét duyệt như hiện nay dù có giải ngân ngay thì thời điểm giao kinh phí cách thời điểm đề xuất nhiệm vụ khá nhiều.

Thời gian qua, phân bổ kinh phí cho hoạt động KH&CN là phân bổ đều cho các tỉnh, thành phố và các bộ, ngành dựa trên số kinh phí giao năm trước mà không dựa vào những căn cứ, tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Có nhiều địa phương, tiềm lực KH&CN yếu, đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao thiếu và yếu nhưng vẫn được giao kinh phí khá lớn, dẫn đến việc sử dụng không hết hoặc đầu tư cho các hạng mục công trình khác của địa phương. Trong khi đó, các bộ, ngành có tiềm lực KH&CN mạnh, đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao rất đông đảo, thì nguồn lực được bố trí lại không phù hợp với nhu cầu nghiên cứu. Tình trạng này dẫn đến lãng phí nguồn kinh phí, hiệu quả hoạt động KH&CN thấp và không tương xứng với nguồn kinh phí đầu tư.

Thực tế cho thấy, kinh phí đầu tư cho công tác nghiên cứu KH&CN ngày càng gia tăng và khối lượng nghiên cứu khổng lồ, nhưng đề tài có thể ứng dụng được trong sản xuất và đời sống còn rất ít. Nói cách khác, hiệu quả thu được chưa tương xứng với đồng vốn Nhà nước đầu tư cho KH&CN. Mặt khác, nhiều năm nay, cơ chế giám sát sử dụng kinh phí đối với các nhiệm vụ KH&CN rất lạc hậu và chậm được đổi mới. Các thủ tục thanh, quyết toán đề tài, nhiệm vụ KH&CN rườm rà, mang nặng tính hành chính, buộc nhà khoa học phải đối phó, gian dối và làm nản lòng nhiều nhà khoa học chân chính.

  1. Đề xuất một số giải pháp về chính sách tài chính với KH&CN

Đổi mới cơ chế tài chính là một bộ phận trong việc đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ về cơ chế quản lý, hoạt động, cơ chế tổ chức KH&CN. Trong đó, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp:

Thứ nhất, cần nghiên cứu để đổi mới toàn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động KH&CN đảm bảo chi có hiệu quả 02% tổng chi NSNN. Nên cân nhắc có thể không cân đối chi KH&CN theo tỷ lệ chi NSNN mà cân đối theo dự toán, gắn với nhu cầu, nhiệm vụ cụ thể. Mặt khác, có thể hơn 2%, nhưng phải gắn liền với nhiệm vụ KH&CN cụ thể tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai, theo Luật NSNN, khuôn khổ tài chính trung hạn và khuôn khổ chi tiêu trung hạn đang được triển khai đưa vào trong quy trình lập dự toán NSNN. Vì vậy, có thể nghiên cứu thay thế quy định cứng dành 02% tổng chi NSNN hàng năm, bằng việc đưa ra các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu vào khuôn khổ tài chính trung hạn và chi tiêu trung hạn thể hiện những ưu tiên trong lĩnh vực KH&CN trong trung hạn để bố trí nguồn ngân sách phù hợp. Đồng thời, cần đổi mới và giải quyết triệt để những vướng mắc về thủ tục hành chính. Cải cách và đổi mới thủ tục hành chính sẽ góp phần khắc phục tình trạng giải ngân quá chậm, do phải dành quá nhiều thời gian cho các thủ tục về tài chính.

Thứ ba, trong bối cảnh nguồn kinh phí dành cho hoạt động KH&CN có hạn, để nâng cao hiệu quả đầu tư và Nhà nước cần kiên quyết chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún. Cần khảo sát, đánh giá chính xác tiềm lực KH&CN của các ngành, các địa phương để làm căn cứ đầu tư. Đồng thời, thống nhất cơ quan quản lý đầu tư cho KH&CN vào một đầu mối, không nên để tình trạng phân tán như hiện nay (Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển KH&CN, Bộ KH&CN chủ trì xây dựng kế hoạch đầu tư sự nghiệp KH&CN,…).

Thứ tư, đổi mới và cải cách các thủ tục thanh, quyết toán kinh phí thực hiện của hoạt động KH&CN. Nên thực hiện áp dụng cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH&CN cuối cùng, giao quyền chủ động tối đa cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN trong sử dụng kinh phí Nhà nước, chủ động mua kết quả và mua sản phẩm nghiên cứu KH&CN.

Thứ năm, tăng cường phân cấp hơn nữa cho các bộ, ngành, địa phương trong quản lý và tổ chức hoạt động KH&CN, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và quyền hạn các bộ, ngành, các địa phương trong hoạt động KH&CN. Đối với các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng, các bộ, ngành, địa phương nên phân bổ kinh phí trực tiếp cho bộ, ngành và địa phương để thực hiện. Đối với các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia mang tính liên ngành, nên cấp kinh phí cho Bộ KH&CN quản lý hoặc thông qua các quỹ phát triển KH&CN.

Thứ sáu, thay vì cấp kinh phí trực tiếp thì việc đặt hàng nghiên cứu KH&CN được xem là giải pháp tối ưu không chỉ giải quyết khâu tìm đề tài phù hợp cho các nhà khoa học, mà còn bảo đảm kinh phí đầu tư có hiệu quả cho nghiên cứu khoa học và giảm thiểu lãng phí. 

  1. Một vài đề xuất về chính sách thuế và quản lý thuế

Một là, về Thuế GTGT

Cần quy định nhất quán hơn với các loại hình hoạt động khoa học công nghệ về đối tượng chịu thuế và thuế suất. Hoạt động KH&CN (nghiên cứu, phát triển hay chuyển giao công nghệ) nên quy định là đều thuộc diện chịu Thuế GTGT với thuế suất thấp nhất. Cần tạo thuận lợi cho việc kê khai và nộp thuế đầu vào,… đầu ra phát sinh liên quan đến hoạt động KH&CN (một nguyên tắc của thuế GTGT là hoạt động chịu thuế thì mới được khấu trừ thuế đầu vào).

Hai là, về Thuế TNDN

Hoạt động KH&CN là loại hình đặc biệt. Vì vậy, nên chăng cần phải có quy định là các cơ sở hoạt động khoa học công nghệ nếu tách riêng được phần thu nhập chịu thuế từ dịch vụ KH&CN thì sẽ được hưởng ưu đãi riêng về Thuế TNDN.

Ba là, các quy định pháp lý về thuế đối với lĩnh vực KH&CN

Hiện nay, có quá nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh. Việc điều chỉnh, bổ sung chính sách qua các giai đoạn phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội khác nhau và phù hợp với các luật liên quan là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi hơn cho lĩnh vực hoạt động KH&CN, cần rà soát và hệ thống lại các căn cứ pháp lý và quy định tại một văn bản phù hợp.

Tóm lại, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển KH&CN. Với ý nghĩa đó, chính sách về KH&CN đang được áp dụng là rất quan trọng. Việc điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách thuế đối với lĩnh vực KH&CN cũng nhằm để thực hiện các mục tiêu và yêu cầu phát triển KH&CN./.

                   

Tài liệu tham khảo

 Quốc hội. (2013, 2018, 2022). Luật KH&CN

Quốc hội. Luật Quản lý Thuế

Quốc hội. Các Luật Thuế GTGT, TNDN, TNCN.

Quốc hội. Thuế Xuất nhập khẩu.

Bộ Tài chính. Các Thông tư của Bộ Tài chính về Thuế.

Th.S. Nguyễn Bá Phú, Thuế đối với lĩnh vực khoa học công nghệ – Một số vấn đề đặt ra và cần điều chỉnh. Tạp chí Kiểm toán.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *