Nghiên cứu trao đổi

Phát triển dịch vụ E-Logistics trong thương mại điện tử ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức

Tiêu đề Phát triển dịch vụ E-Logistics trong thương mại điện tử ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức Ngày đăng 2024-01-25
Tác giả Admin Lượt xem 1371

TS. Nguyễn Hoàng Tuấn*

(*Khoa Thuế & Hải quan, Học viện Tài chính).

Nhận:          18/10/2023

Biên tập:     19/10/2023

Duyệt bài:   19/11/2023

Tóm tắt

Bài viết đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ E-Logistics trong thương mại điện tử (TMĐT) ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, chỉ ra những cơ hội đối với sự phát triển của E-Logistics tại Việt Nam, bao gồm sự phát triển nhanh chóng của TMĐT, việc ứng dụng công nghệ mới, sự cải thiện về hạ tầng vận tải và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho ngành Logistics. Bên cạnh đó là những thách thức phải đối mặt như: sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, mức độ cạnh tranh cao, việc hoàn thiện hành lang pháp lý, hạn chế về năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp (DN) Logistics Việt Nam và tốc độ phát triển của hạ tầng giao thông chưa theo kịp với sự phát triển của ngành Logistics.

Từ khoá: E-Logistics, thương mại điện tử.

Abstract

The study analyzed the current situation of the development of E-Logistics   services in Vietnam’s e-commerce sector. The results show the opportunities for E-Logistics development, including the rapid growth of e-commerce, the application of new technologies, and the improvement of transportation infrastructure and state support policies. In addition to these opportunities, research also identifies challenges in the future development of the E-Logistics industry, such as rapidly changing technology, intense competition, completion of the legal corridor, limited financial capacity of many Vietnamese Logistics companies, and the slow speed of development of transport infrastructure, unable to catch up with the growth of the Logistics industry.

Keywords: E-Logistics, e-commerce.

JEL Classifications: M20, M21, M29.

DOI: https://doi.org/10.59006/vnfa-jaa.11202304

  1. Đặt vấn đề

Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế toàn cầu, hoạt động vận chuyển hàng hoá giúp gắn kết giữa quá trình sản xuất với tiêu dùng cũng có sự phát triển và biến đổi nhanh chóng, tạo nên các hệ thống phân phối hàng hoá liên hoàn trong các chuỗi cung ứng. Đó chính là hoạt động Logistics, với mục tiêu nâng cao năng lực và hiệu quả của các chuỗi cung ứng và nền kinh tế.

Ở Việt Nam, hoạt động Logistics truyền thống đã có sự phát triển nhanh chóng gắn liền với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Theo Báo cáo Chỉ số Logistics thị trường mới nổi năm 2023 do nhà cung cấp dịch vụ vận tải và hậu cần Kho vận Agility công bố, Việt Nam xếp hạng 10/50 thị trường Logistics mới nổi. Với tốc độ tăng trưởng ngành bình quân hàng năm từ 14-16%, số lượng và chất lượng dịch vụ Logistics được nâng cao, đóng góp quan trọng vào GDP hằng năm ở mức 4-5%.

Ngày nay, với sự phát triển của Cuộc Cách mạng Công nghệ 4.0 đã tác động thay đổi các phương thức giao dịch thương mại truyền thống chuyển sang giao dịch theo phương thức điện tử ngày một nhiều hơn. Điều này cũng đã tạo ra sự ra đời và phát triển rất nhanh chóng của TMĐT ở Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng từ 20% – 25%/năm và kéo theo ngành công nghiệp Logistics dự báo sẽ có đà phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ E-Logistics, mặc dù mới ra đời nhưng đã có sự tăng trưởng vượt bậc về trình độ phát triển. Để có thể có một cái nhìn rõ nét hơn về sự phát triển của dịch vụ E-Logistics trong TMĐT ở Việt Nam, bài viết sẽ xem xét làm rõ về mặt cơ sở lý thuyết và thực trạng đối với sự phát triển của E-Logistics. Từ đó, chỉ ra những cơ hội và thách thức, cũng như đề xuất một số giải pháp để phát triển hơn nữa lĩnh vực dịch vụ E-Logistics tại Việt Nam trong thời gian tới.

  1. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

2.1. Cơ sở lý thuyết

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và việc ứng dụng vào trong lĩnh vực thương mại đang làm thay đổi lối sống, thói quen mua sắm và đặc thù sản xuất kinh doanh trên toàn cầu. Các nhà sản xuất và người tiêu dùng quen dần với hoạt động bán hàng và mua sắm qua kênh TMĐT, thay vì chỉ lựa chọn kênh thương mại truyền thống. Điều này cũng tất yếu đòi hỏi sự thay đổi của lĩnh vực Logistics, vốn được coi là mắt xích quan trọng nối giữa các khâu trong hoạt động sản xuất với nhau và giữa sản xuất với tiêu dùng. Chính vì vậy, E-Logistics đã ra đời và nhanh chóng phát triển trên thế giới, nhằm hỗ trợ việc di chuyển hàng hóa từ nơi cung ứng đến nơi tiêu dùng qua các giao dịch mua bán điện tử. Thuật ngữ E-Logistics cũng đã được nhiều học giả nghiên cứu đưa ra:

Theo Deborah L. Bayles (2002) thì “Dịch vụ hậu cần điện tử, hay E-Logistics là các hoạt động kinh doanh được thực hiện thông qua Internet”. Theo đó, ông cho rằng, hậu cần điện tử là cơ chế tự động hóa các quy trình hậu cần và cung cấp dịch vụ quản lý chuỗi cung ứng, thực hiện tích hợp từ đầu đến cuối cho các quy trình hậu cần tích hợp. Đặc thù của mô hình TMĐT là có độ phủ thị trường rộng, độ phân tán hàng hóa cao, quy mô nhỏ lẻ, tần suất mua lớn, mặt hàng đa dạng, thường yêu cầu thời gian giao hàng nhanh chóng, miễn phí và thu tiền tận nơi. Các dòng di chuyển hàng hóa mở rộng đáng kể về phạm vi, khoảng cách và tính phức tạp, nên E-Logistics có những khác biệt rất lớn với Logistics truyền thống.

Theo Gunasekaran, A., Ngai E. W. T. and T. C. E. Cheng (2007) thì “Logistics điện tử (E-Logistics) là quá trình hoạch định chiến lược, thiết kế và thực thi tất cả các yếu tố cần thiết của hệ thống, quy trình, cơ cấu tổ chức và tác nghiệp Logistics để hiện thực hóa và vật chất hóa cho hoạt động TMĐT”.

Cũng theo Gunasekaran et al. (2007), hậu cần điện tử liên quan đến các nhà cung cấp dịch vụ 3PL, cùng với mạng lưới vận tải và kho bãi với các công nghệ thông tin thích hợp như internet, nhận dạng tần số vô tuyến (RFID), công nghệ di động, trao đổi dữ liệu điện tử và không dây (EDI). Vì vậy, E-Logistics còn được gọi là Logistics, dựa trên internet. Tuy nhiên, việc sử dụng internet trong các quy trình Logistics không có nghĩa là Logistics trở thành điện tử. Hậu cần điện tử là một hệ thống phức tạp, bao gồm các trung tâm hậu cần, nhà phân phối, nhà vận chuyển, người bán lại và người tiêu dùng. Trong đó, sử dụng công nghệ truyền thông di động (không dây) và có dây, để trao đổi dữ liệu điện tử qua internet với mục tiêu giảm lỗi dữ liệu và tăng hiệu quả ra quyết định (Skitsko, 2016: 9).

Theo Salman (2012), E-Logistics bao gồm tác động của internet đối với quá trình chuỗi cung ứng như lập kế hoạch, triển khai và kiểm soát dòng lưu chuyển hiệu quả hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đồng quan điểm với Quirk và cộng sự (2003).

Như vậy, có thể thấy, một số học giả coi hậu cần điện tử như một quy trình giao hàng hỗ trợ để thực hiện các đơn đặt hàng TMĐT trực tuyến (Joseph, Laura và Srinivas, 2004). Nhưng, những người khác lại cho rằng, hậu cần điện tử là việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ cung cấp và thực hiện một loạt các hoạt động hậu cần (Daly và Cui, 2003; Gunasekaran, Ngai và Cheng, 2007). Trong khi,  khái niệm thứ nhất định nghĩa hẹp về tiện ích hậu cần điện tử trong môi trường kinh doanh trực tuyến tới khách hàng (B2C) hoặc DN tới DN (B2B), thì khái niệm thứ hai đưa ra một khái niệm rộng hơn tập trung vào việc sử dụng công nghệ thông tin, để quản lý thông tin và luồng thông tin trong chuỗi cung ứng hoặc mạng lưới cung ứng.

Tóm lại, dịch vụ hậu cần điện tử có thể hiểu là sự kết hợp của hệ thống Logistics với hệ thống TMĐT (E-commerce), để tổ chức và hỗ trợ việc vận chuyển hàng hóa từ nơi cung ứng đến nơi tiêu dùng một cách có hiệu quả nhất.

Mô hình hoạt động E-Logistics đưa ra, bao gồm những nhân tố liên quan chính: phân phối, sản xuất, bán lẻ, chuyển phát nhanh, kho vận, bán hàng, dịch vụ khách hàng, ngân hàng, nhà cung cấp và những yếu tố liên quan đến công nghệ thông tin, như: hệ thống cung cấp dữ liệu nội bộ, báo cáo hiệu suất hoạt động, thông báo tương tác và sự truy xuất, theo dõi đơn hàng.

Như vậy, khác với lĩnh vực Logistics truyền thống với những đơn hàng lớn, Logistics điện tử có đặc thù riêng với những đơn hàng nhỏ lẻ, số lượng đơn hàng lớn, nhiều chủng loại, tiến độ giao hàng nhanh và đòi hỏi độ chính xác cao. Điểm khác biệt lớn nhất là, trong khi phần lớn việc xử lý đơn hàng và báo giá Logistics truyền thống được thực hiện bằng phương pháp thủ công, thì E-Logistics đòi hỏi việc thực hiện Logistics đầu vào (procurement) và Logistics đầu ra (fulfillment) được xử lý bằng công nghệ thông tin; các quy trình được tự động hóa, để đáp ứng số lượng đơn hàng lớn lên đến hàng triệu đơn mỗi ngày, hàng trăm ngàn chủng loại hàng hóa, tiến độ giao hàng chỉ trong vòng 1-2 giờ.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong bài viết, chủ đạo là phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp trên cơ sở hệ thống các báo cáo và số liệu được cung cấp trên các website uy tín, như: Bộ Công thương, Cục TMĐT và kinh tế số (Idea), Hiệp hội TMĐT Việt Nam (Vecom), Hiệp hội DN Dịch vụ Logistics Việt Nam,…

  1. Kết quả nghiên cứu

3.1. Thực trạng phát triển TMĐT ở Việt Nam

TMĐT chính thức được thừa nhận ở Việt Nam, khi Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cùng nhiều nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử được ban hành năm 2006, đã đánh dấu giai đoạn phổ cập TMĐT kéo dài trong 10 năm (2006 – 2015).

Tới năm 2015, đông đảo người dân và DN đã tham gia mua bán và kinh doanh trực tuyến. Sau giai đoạn hình thành và phổ cập, từ năm 2016 TMĐT nước ta đã bước sang giai đoạn phát triển nhanh. Quy mô thị trường TMĐT bán lẻ của Việt Nam ước lên đến trên 59 triệu người tiêu dùng (năm 2023), với tỷ lệ người dân sử dụng internet chiếm 54% dân số (năm 2015), đã lên đến khoảng 74% dân số (năm 2023), vượt mức trung bình của thế giới là 46,64% và đang trở thành quốc gia có tiềm lực mạnh về phát triển TMĐT, tại Bảng 1.

Bảng 1: Quy mô thị trường TMĐT bán lẻ của Việt Nam

(Nguồn: tổng hợp từ số liệu báo cáo)

Cũng theo ước tính tại Báo cáo TMĐT của IDEA năm 2023, chỉ tính riêng doanh thu từ B2C ước đạt 20,5 tỷ USD (năm 2023), với tốc độ tăng trưởng lên đến 25%, tại Hình 1.

Hình 1: Doanh thu B2C và tỷ lệ tăng trưởng TMĐT ở Việt Nam 2014 – 2023

(Nguồn: tổng hợp từ số liệu báo cáo TMĐT của IDEA 2014 – 2023)

Với lĩnh vực bán lẻ trực tuyến, thông tin từ hàng nghìn website TMĐT cho thấy, các mặt hàng được giao dịch nhiều tập trung vào quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ công nghệ, điện tử, thiết bị đồ dùng gia đình, tại Hình 2; nhiều loại hình kinh doanh TMĐT mới xuất hiện trên nền tảng Điện toán đám mây (Cloud computing), Công nghệ di động (Mobile technology), Dữ liệu lớn (Big data), Mạng xã hội (Social media), Internet vạn vật (Internet of things) hay Blockchain.

Hình 2: Thống kê về tỷ lệ người mua sắm trực tuyến theo loại hình hàng hoá/dịch vụ tại Việt Nam năm 2023

(Nguồn: tổng hợp từ số liệu báo cáo TMĐT Việt Nam 2023 của IDEA)

 Xét theo lĩnh vực thì tốc độ tăng trưởng doanh thu bán lẻ hàng hoá trực tuyến trung bình năm (%) luôn ở mức cao 26% (năm 2022), dự kiến sẽ lên 37% (2025) và đạt mức 32 tỷ USD.

Hình 3: Quy mô nền kinh tế Internet phân theo lĩnh vực

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu báo cáo TMĐT Việt Nam 2023 của IDEA)

3.2. Thực trạng phát triển dịch vụ E-Logistics trong TMĐT ở Việt Nam

Với tốc độ phát triển của TMĐT ở Việt Nam diễn ra rất nhanh trong những năm qua, cũng đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của E-Logistics. Theo Báo cáo TMĐT của IDEA 2023, phương thức vận chuyển trong TMĐT được sử dụng nhiều nhất là tự vận chuyển, chiếm 69% và thấp hơn một chút là sử dụng dịch vụ vận chuyển của bên thứ 3, tại Hình 4.

Hình 4: Phương thức vận chuyển hàng hóa mà DN sử dụng trong TMĐT

(Nguồn: tổng hợp từ số liệu báo cáo TMĐT của IDEA 2023)

Tuy nhiên, cũng theo phản hồi của các khách hàng thì chi phí vận chuyển (chiếm 31%) và chất lượng dịch vụ vận chuyển (chiếm 19%) cũng là hai tiêu chí được nhiều khách hàng đánh giá thấp, là yếu tố cản trở đến sự phát triển của TMĐT ở Việt Nam, tại Hình 5.

Hình 5: Các trở ngại khi mua hàng trực tuyến

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu báo cáo TMĐT của IDEA 2023)

Như vậy, có thể thấy rằng, ở thời điểm hiện tại thì chi phí Logistics của nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với ngành TMĐT nói riêng, vẫn còn khá cao.

Theo báo cáo của VECOM, trong năm 2021, chi phí Logistics tại các DN bán lẻ chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành, dao động từ 10% đến 20%. Trong chi phí Logistics, chi phí vận chuyển có tỷ lệ đóng góp cao nhất, khoảng từ 60% đến 80%; xếp theo sau là chi phí xếp dỡ và lưu kho, chia đơn hàng. Những con số chi phí liên quan đến Logistics ở trên được dự báo sẽ có cải thiện đáng kể trong tương lai, khi sự xâm nhập và đầu tư từ các sàn TMĐT trở nên mạnh mẽ hơn. Hiện nay, các DN TMĐT đang tăng cường đẩy mạnh đầu tư vào mảng E-Logistics, bằng cách áp dụng các công nghệ tiên tiến như học máy (machine learning), trí tuệ nhân tạo AI, Internet of Things (IoT) và  áp dụng hệ thống các phần mềm quản lý giao nhận vận tải, quản lý kho hàng, quản lý đơn hàng, hệ thống chia chọn/thực hiện đơn hàng, kho tự động, hệ thống tích hợp với các sàn TMĐT, sàn giao dịch vận tải, . . .

Có thể thấy rằng, các công nghệ trong ngành E-Logistics tại Việt Nam hiện đang được ứng dụng tập trung vào việc tối ưu hóa năng lực vận tải, tự động hóa kho hàng, tìm kiếm các giải pháp chuyển phát nhanh và thống nhất, tự động hóa sản xuất theo định hướng sản xuất tinh gọn, loại bỏ các bước thừa, đảm bảo chất lượng và loại bỏ bớt khâu kiểm tra trung gian, ứng dụng công nghệ tự động vào sản xuất và giám sát như sử dụng robot, ứng dụng công nghệ thông tin để tạo mạng lưới thông tin thông suốt trong chuỗi cung ứng. Những điều này, sẽ giúp cho các DN cải thiện độ chính xác, giảm thời gian và chi phí của quy trình vận chuyển, quản lý kho và phân phối hàng hóa. Qua đó, cải thiện hiệu quả chi phí vận hành mà vẫn đảm bảo được chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, các DN còn mở rộng tìm kiếm các đối tác Logistics đáng tin cậy đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nhân lực chất lượng để đảm bảo hoạt động Logistics được thuận lợi và hiệu quả. Cùng với tốc độ phát triển ấn tượng của ngành TMĐT, đầu tư vào E-Logistics được nhận định là một trong những xu hướng trọng yếu trong những năm tới, nhằm giảm thiểu chi phí vận chuyển và nâng cao trải nghiệm cho người dùng.

3.3. Cơ hội và thách thức đối với phát triển dịch vụ E-Logistics trong TMĐT ở Việt Nam

3.3.1. Cơ hội

Thứ nhất, sự tăng trưởng của TMĐT ở Việt Nam diễn ra những năm qua rất nhanh, tạo ra quy mô thị trường ngày một lớn, tại Bảng 1, Hình 1, Hình 2 và  Hình 3. Từ đó, các nhu cầu về E-Logistics trong xử lý, vận chuyển và giao hàng ngày một tăng theo. Đặt hàng online vaf nhận các đơn hàng từ shipper có lẽ hiện đang trở thành một thói quen vô cùng quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của mọi người, bất kể ở thành thị hay nông thôn.

Thứ hai, lĩnh vực E-Logistics nói riêng và Logistics nói chung, đang là lĩnh vực dịch vụ được Nhà nước quan tâm phát triển với hàng loạt các chính sách được ban hành, gần đây đang tạo điều kiện cho ngành Logistics phát triển như: Quyết định 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 của Chính phủ về kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN dịch vụ Logistics ở Việt Nam đến năm 2025 và Quyết định 221/QĐ ngày 22/02/2021, sửa đổi bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTG ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025, Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29/11/2022 quy định Bộ Công thương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động dịch vụ Logistics,. . .

Thứ ba, hạ tầng vận tải phục vụ cho sự phát triển của ngành Logistics Việt Nam trong thời gian qua được tăng cường đầu tư mạnh mẽ cả về cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt, cảng biển và hàng không. Điều này tạo thuận lợi cho hoạt động kết nối, vận chuyển hàng hoá giữa các khu vực trong nước cũng như quốc tế được thuận lợi và nhanh chóng hơn.

Thứ tư, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trong lĩnh vực E-Logistics như trí tuệ nhân tạo, Blockchain, IoT và các phần mềm quản lý trực tuyến. Chính sự phát triển của các công nghệ này, tạo ra cơ hội để đẩy nhanh sự phát triển của ngành E-Logistics tại Việt Nam bắt nhịp nhanh với thế giới, thông qua việc các DN trong nước và nước ngoài đẩy mạnh việc đầu tư vào các ứng dụng công nghệ, để nâng cao hiệu quả và tối ưu hoá quá trình vận chuyển, lưu kho và xử lý đơn hàng TMĐT.

3.3.2. Thách thức

Bên cạnh những cơ hội phát triển, thì còn rất nhiều khó khăn mà ngành dịch vụ E-Logistics tại Việt Nam đang gặp phải:

Trước tiên là hạn chế về cơ sở hạ tầng phục vụ cho ngành Logistics Việt Nam, mặc dù đã có sự cải thiện nhưng vẫn còn chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của TMĐT. Khi thị trường TMĐT ngày trở nên rộng lớn, với việc địa bàn được mở rộng xa các vị trí trung tâm giao hàng tại các thành phố lớn. Khi đó, với vị trí người mua hàng ở xa, số lượng các đơn hàng lẻ nhiều, quy mô các đơn hàng lại rất nhỏ, yêu cầu giao hàng nhanh thì khối lượng công việc vận chuyển giao hàng sẽ trở nên vô cùng lớn và phức tạp, nhất là các đơn hàng liên thành phố hoặc tại khu vực nông thôn. Lúc này, nhà phân phối TMĐT sẽ cần tới các trung gian Logistics mới để tối ưu hóa việc di chuyển hàng hóa đến tay khách hàng. Điều này cũng kéo theo chi phí cho Logistics tăng cao hơn, chi phí này khi tính cho người tiêu dùng thì giá mua hàng trực tuyến không thấp hơn nhiều so với mua hàng theo phương thức truyền thống, giảm hiệu quả cạnh tranh về chi phí.

Tiếp theo, đó là mức độ ứng dụng công nghệ của các DN Logistics Việt Nam còn ở mức độ thấp mà trong lĩnh vực E-Logistics thì công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Để có thể tham gia đầy đủ vào chuỗi cung ứng Logistics điện tử, các DN phải đầu tư số tiền rất lớn cho việc mua sắm và phát triển các công nghệ ứng dụng. Thí dụ như công nghệ về hệ thống tự động phân loại hàng hóa, để đáp ứng nhu cầu xử lý số lượng đơn hàng lên đến hàng triệu đơn mỗi ngày, nhiều chủng loại, phân tán nhiều địa điểm giao hàng khác trong thời gian nhanh nhất và đảm bảo độ chính xác, mà việc này không thể làm được nếu phân loại thủ công. Ngoài ra, còn có các phần mềm hệ thống quản lý đơn hàng (OMS), quản lý kho (WMS), quản lý vận tải (TMS), quản lý tổng thể (ERP), . . . để kết nối và quản trị thông tin theo thời gian thực, giúp tra cứu và xử lý thông tin về đơn hàng mọi lúc và mọi nơi. Có thể thấy rằng, chi phí đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ như vậy vượt qua khả năng tài chính của các DN logisctics vừa và nhỏ, vốn chiếm phần lớn ở Việt Nam.

Một trong những rào cản lớn nữa để các DN Logistics Việt Nam khi tham gia vào lĩnh vực E-Logistics là đầu tư hệ thống kho bãi, để quản trị lưu kho và dự trữ hàng hóa. E-Logistics đòi hỏi DN phải có hệ thống chi nhánh, đại lý, kho hàng phân bố rộng khắp trong nội thị cũng như các địa bàn cả nước, để bảo đảm phủ sóng tất cả các đơn hàng với thời gian nhanh nhất. Có thể thấy, ở Việt Nam, trừ các DN nước ngoài và một số DN trong nước có quy mô lớn, có hệ thống kho bãi riêng, phần lớn các DN Logistics hiện nay nếu có kinh doanh mảng kho bãi đều không đủ năng lực tài chính để đầu tư hệ thống kho bãi của riêng mình, mà phải đi thuê bên ngoài và tất nhiên chi phí Logistics trong chuỗi E-Logistics sẽ không thể nào cạnh tranh được.

Bên cạnh những khó khăn đó, mặc dù đã có sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành thông qua các chính sách thúc đẩy sự phát triển của ngành Logistics nói chung. Tuy nhiên, còn thiếu các chương trình hỗ trợ về tài chính và định hướng, hạ tầng pháp lý và các quy định liên quan đến lĩnh vực E-Logistics, nên hoạt động e-logistis vẫn còn gặp nhiều khó khăn; thêm vào đó, lĩnh vực E-Logistics đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao để tham gia vào chuỗi cung ứng, vì các quy trình xử lý trong chuỗi E-Logistics đều liên quan đến các kiến thức công nghệ mới, khác nhiều so với kiến thức Logistics truyền thống. Nhưng thực tế hiện nay, nguồn nhân lực phục vụ trong ngành Logistic Việt Nam tuy trẻ nhưng số lượng còn ít, trình độ chuyên môn sâu còn yếu, kinh nghiệm làm việc chưa có và đặc biệt là sự hạn chế về khả năng ngoại ngữ, đã khiến việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động gặp khó khăn.

Ngoài ra, trong lĩnh vực E-Logistics thì nhu cầu và sự thay đổi của khách hàng diễn ra rất nhanh chóng, buộc các công ty phải liên tục đổi mới và cải tiến quy trình công nghệ và dịch vụ, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, sự cạnh tranh cũng diễn ra rất gay gắt giữa các công ty trong nước với nhau và với các công ty nước ngoài có tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ và nhân lực. Những vấn đề trên đang đặt ra cho ngành E-Logistics Việt Nam nhiều thách thức cần phải vượt qua, nếu muốn tồn tại và phát triển.

  1. Khuyến nghị và giải pháp

Trước xu hướng tăng trưởng nhanh chóng và sôi động của TMĐT kéo theo sự phát triển của ngành E-Logistics ở Việt Nam trong thời gian qua, để có thể thúc đẩy sự phát triển của các DN Logistics Việt Nam trong lĩnh vực E-Logistics thì Chính phủ và các DN Logistics Việt Nam cần phải thực hiện nhiều giải pháp thích ứng. Cụ thể là:

Thứ nhất, phải tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ Logistics

Sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ Logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, bao quát toàn diện các dịch vụ Logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về Logistics,… Trong đó, cần làm rõ những nội dung quy định pháp lý về E-Logistics, để từ đó hoàn thiện hành lang pháp lý cho sự phát triển của lĩnh vực này.

Thứ hai, nâng cao mức độ ứng dụng công nghệ

Có thể thấy, khó khăn lớn nhất các DN Logistics Việt Nam khi tham gia lĩnh vực E-Logistics là đầu tư hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng nhu cầu của TMĐT, trong khi năng lực tài chính và công nghệ bị hạn chế. Vì vậy, giải pháp đưa ra là, cần có sự hỗ trợ từ chính phủ và các tập đoàn công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam trong xây dựng, chuyển giao các phần mềm quản trị E-Logistics cho các DN Logistics Việt Nam với mức giá ưu đãi, để các DN đều có cơ hội sử dụng và tham gia vào chuỗi cung ứng E-Logistics.

Thứ ba, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế, thuê đất, lãi vay

Để hỗ trợ các DN Logistics Việt Nam có quy mô lớn có điều kiện đầu tư hệ thống kho bãi, hệ thống phân loại hàng hóa và đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn lớn của nước ngoài.

Thứ tư, Nhà nước cần hoàn thiện kết cấu hạ tầng Logistics

Tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ Logistics. Thu hút đầu tư các trung tâm Logistics quy mô lớn, tập trung và theo vùng, giúp lưu trữ và bảo quản hàng hóa trong thời gian dài, từ đó phát luồng phân phối đi các nơi.

Thứ năm, có các chính sách hỗ trợ

Thúc đẩy sự phối hợp giữa các trường, trung tâm đào tạo và DN trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển của lĩnh vực E-Logistics tại Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo

 

Bayles, D. L. (2002. E-Logistics & e-fulfillment: beyond the “buy” button. In UNCTAD Workshop (pp. 1-12).

Bình, N. T., & Hương, T. T. T. (2021). Phát triển TMĐT: cơ hội và thách thức cho ngành dịch vụ Logistics Việt Nam. Tạp chí Quản lý Kinh tế Quốc tế (Journal of International Economics and Management), (134), 1-15.

Bộ Công thương. (2022). Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, NXB Công thương.

Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương. (2014). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2014. Hà Nội.

Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương. (2015). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2015. Hà Nội.

Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương. (2017). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2017. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2018). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2018. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2019). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2019. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2020). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2020. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2021). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2021. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2022). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2022. Hà Nội.

Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công thương. (2023). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2023. Hà Nội.

Daly, S. P., & Cui, L. X. (2003). E-Logistics in China: Basic problems, manageable concerns and intractable solutions. Industrial Marketing Management, 32(3), 235–242. https://doi.org/10.1016/S0019-8501(02)00267-5

Elkhateb, A. K. M. (2012). The effect of E-Logistics on the customer satisfaction (Doctoral dissertation, Doctoral dissertation, Helwan University).

Gunasekaran, A., Ngai, E. W., & Cheng, T. E. (2007). Developing an E-Logistics system: a case study. International Journal of Logistics, 10(4), 333-349.

Moroz, M. I. R. O. S. L. A. W., Nicu, C. C., Pavel, I. D. D., & Pólkowski, Z. (2014). The transformation of Logistics into E-Logistics with the example of electronic freight exchange. Zeszyty Naukowe Dolnośląskiej Wyższej Szkoły Przedsiębiorczości i Techniki. Studia z Nauk Technicznych, (3), 111-128.

Quirk A., Forder J., Bentley D. (2003). Electronic Commerce and the Law, 2nd edition, John Wiley & Sons Ltd., USA

Sarkis, Joseph & Meade, Laura & Talluri, Srinivas. (2004). E-Logistics and the Natural Environment. Supply Chain Management. 9. 303-312. https://doi.org/ 10.1108/13598540410550055

Skitsko, V. I. (2016). E-Logistics and M-Logistics in Information Economy. Logforum, 12(1), 7-16

VCCI & Lazada. (2023), Báo cáo TMĐT phát triển bền vững: Động lực thúc đẩy nền kinh tế số.

 

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *