Hoạt động trung ương hội

Tổ chức kiểm toán nội bộ – Bước đột phá trong hoàn thiện cơ chế quản lý tại các trường đại học trên thành phố Hà Nội

Tiêu đề Tổ chức kiểm toán nội bộ – Bước đột phá trong hoàn thiện cơ chế quản lý tại các trường đại học trên thành phố Hà Nội Ngày đăng 2017-03-08
Tác giả Admin Lượt xem 1032

(Đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số T12/2016)

Ngày nhận: 28/11/2016
Ngày nhận bản sửa: 15/12/2016
Ngày duyệt đăng: 22/12/2016

Kiểm toán nội bộ (KTNB) là công cụ để các trường Đại học (ĐH) tổ chức thực hiện được các mục tiêu thông qua việc đánh giá một cách có hệ thống và sát thực, nhằm nâng cao tính hiệu quả đối với hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL). Đồng thời, qua việc đánh giá có hệ thống, sát thực đó, KTNB cung cấp những thông tin hỗ trợ, tham mưu nhằm điều chỉnh các mục tiêu, điều chỉnh phương thức thực hiện mục tiêu của các trường phù hợp với tình hình thực tế và hoàn thành sứ mệnh của mình.

Từ khóa:  KTNB, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro.

Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH sẽ là tiền đề tạo được chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Mục tiêu đến năm 2020, giáo dục ĐH Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; Có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Hà Nội là TP có số lượng các trường ĐH tập trung đông nhất cả nước, trong đó 84,6% là các trường công lập. Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện các cơ sở giáo dục ĐH, các trường ĐH tại địa bàn Hà Nội không chỉ có sứ mệnh là tổ chức đào tạo có chất lượng và uy tín trước xã hội cao, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động mà còn phải đáp ứng những mục tiêu khác như: Phải tạo được các nguồn thu để duy trì hoạt động của nhà trường, phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học để vừa tạo ra nguồn thu, vừa nâng cao tiềm lực khoa học, vừa nâng cao vị thế và uy tín cho nhà trường,… Để thực hiện được sứ mệnh này, nhiều trường ĐH đã được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính để phát huy cao độ tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự kiểm soát bên trong của các trường ĐH phù hợp với các quy định của Nhà nước như ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Thương mại,… Bản chất của việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xét về góc độ quản lý tài chính là bước đầu việc thực hiện chuyển đổi quản lý tài chính của các trường ĐH công lập sang cơ chế quản lý tài chính của DN. Để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH, tài chính là một nguồn lực rất quan trọng, đóng vai trò nền tảng để phát triển các nguồn lực khác như con người, cơ sở vật chất,… những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục. ý nghĩa của việc thực hiện chuyển đổi hoạt động sang cơ chế doanh nghiệp (DN) chính là bước đột phá tạo nên sự đổi mới về quản lý tài chính và nguồn tài chính phục vụ cho sự phát triển của các trường ĐH.

Thực tế công tác quản lý cho thấy, KTNB là công cụ hiệu quả để thực hiện vai trò tự kiểm soát bên trong, quản lý, giám sát, kiểm tra nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính, nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính khi thực hiện tự chủ tài chính, thực hiện chuyển đổi sang cơ chế tài chính của DN của các ĐVSLCL tự chủ tài chính, trong đó có các trường ĐH. Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện nay, KTNB trong các trường ĐH vẫn là vấn đề mới. Để KTNB thực sự phát huy vai trò trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường ĐH công lập, đặc biệt là các trường ĐH CL tại TP. Hà Nội, địa bàn có nhiều trường ĐH CL nhất cả nước thì rất cần thiết phải nghiên cứu và có những đánh giá cụ thể về thực trạng tổ chức KTNB tại các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội để có những giải pháp hỗ trợ hoạt động này, tạo điều kiện cho các trường ĐH ngày càng phát triển.

Yêu cầu tổ chức thực hiện KTNB tại các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội
Từ năm 2006 đến nayT, cơ chế tài chính đối với các trường ĐH CL nói chung và các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội nói riêng đã từng bước đổi mới, theo hướng nâng cao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm về tài chính. Các trường ĐH công lập có quyền tự chủ ngày càng cao, trong việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước giao; được tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có, đội ngũ giảng viên, để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hoá các loại hình đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội. Các trường có điều kiện tăng nguồn tài chính, tạo lập nguồn tài sản cố định; tham gia các hoạt động dịch vụ để tăng cường tái đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các trường,…

Đặc biệt Nghị định 16/2015/NĐ- CP, ngày 14/2/2015 ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã nêu rõ, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được vận dụng cơ chế tài chính như DN (công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ), khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: Hoạt động dịch vụ sự nghiệp công có điều kiện xã hội hóa cao, Nhà nước không cần bao cấp; Giá dịch vụ sự nghiệp công tính đủ chi phí (bao gồm cả trích khấu hao tài sản cố định); Được Nhà nước xác định giá trị tài sản và giao vốn cho đơn vị quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước; Hạch toán kế toán để phản ánh các hoạt động theo quy định của các chuẩn mực kế toán có liên quan áp dụng cho DN.

Như vậy, các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các trường ĐH công lập trên địa bàn TP Hà Nội được vận dụng cơ chế tài chính như DN. Khi được phép vận dụng cơ chế tài chính như DN, các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội được xác định vốn điều lệ và bảo toàn vốn; Được huy động vốn, đầu tư vốn ra ngoài đơn vị; Quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định theo DN; Quản lý doanh thu, chi phí và phân phối lợi nhuận; Thực hiện chế độ kế toán, thống kê như DN.

Đứng trên góc độ tài chính, kế toán và kiểm toán để nhìn nhận thì việc chuyển đổi nêu trên của các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội sẽ kéo theo sự thay đổi căn bản trong công tác tài chính, kế toán và kiểm toán. Đó là sự chuyển dịch từ việc thực hiện các nghiệp vụ về quản lý tài chính như đối với đơn vị thụ hưởng Ngân sách Nhà nước thì các trường ĐH sẽ thực hiện các nghiệp vụ về quản lý tài chính theo cơ chế DN. Như vậy, việc tổ chức KTNB trở thành yêu cầu bắt buộc. Đồng thời, khi thực hiện chuyển đổi theo định hướng nêu trên (đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế DN hoặc trở thành công ty cổ phần) thì tự thân cơ chế DN cũng đòi hỏi các trường ĐH phải thực hiện KTNB.

Đồng thời, hiện nay, Chính phủ đang hoàn thiện Dự thảo Nghị định về KTNB, trong đó có đưa các đơn vị sự nghiệp công lập là đối tượng áp dụng. Như vậy, là đơn vị sự nghiệp công lập, các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội phải triển khai thực hiện KTNB như các DN.

Các giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội
Thứ nhất, Hoàn thiện nội dung KTNB
– Nội dung KTNB tại các trường ĐH CL trên địa bàn TP Hà Nội phải bao gồm kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ, trong đó chủ yếu là kiểm toán hoạt động. KTNB phải thực hiện quá trình đánh giá chi tiết về tính hiệu quả, tính hiệu năng và mức độ tuân thủ các quy định về quản lý tài chính đối với các hoạt động. Trên cơ sở đó, KTNB đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo tính đầy đủ, khách quan và hiệu lực của kiểm soát nội bộ, KTNB còn có trách nhiệm trong theo dõi, giám sát việc sử dụng tài sản của trường. Bên cạnh đó, KTNB còn thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cho Ban giám hiệu, Hội đồng trường và các nhà quản lý nhận diện các gian lận, xây dựng chiến lược phòng chống gian lận và giám sát gian lận.
– Nội dung KTNB tại các trường ĐH CL trên địa bàn TP Hà Nội phải thực hiện kiểm toán các hoạt động và nghiệp vụ của các phòng ban chức năng và các bộ phận đào tạo, các bộ phận thực hiện các hoạt động hỗ trợ, các đơn vị và trung tâm thuộc quyền kiểm soát của trường.
KTNB tại ĐH sẽ thực hiện các loại hình kiểm toán khác nhau như kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ, trong đó ưu tiên thực hiện kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá về tính hiệu quả, hiệu lực đối với các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và đầu tư xây dựng cơ bản của nhà trường. Phương pháp kiểm toán dựa trên cơ sở rủi ro.
– Cần đề xuất các nội dung kiểm toán để đảm bảo cơ cấu kiểm soát nội bộ hiện tại của nhà trường đủ mạnh, nhằm đạt được hiệu quả trong quản lý tài chính trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắt hoạt động của trường ĐH. Bộ phận KTNB của trường sẽ phải thực hiện và phối kết hợp giữa kiểm toán trước, kiểm toán trong và sau quá trình thực hiện của mỗi hoạt động của trường.
– Kết quả KTNB thể hiện qua báo cáo KTNB phải chỉ ra được các điểm mạnh, điểm yếu trong đảm bảo chất lượng đã được phân tích, đánh giá, kèm theo là các khuyến nghị cải thiện hoạt động của các bộ phận hoặc của nhà trường để hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ hai, Hoàn thiện quy trình KTNB    
– Quy trình kiểm toán tại các trường ĐH CL trên địa bàn TP Hà Nội cần được thực hiện triển khai đầy đủ, bao gồm bốn giai đoạn: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, tổng hợp và báo cáo, theo dõi sau kiểm toán. Trong đó, công tác chuẩn bị cần thực hiện theo đúng yêu cầu của KTNB. Cụ thể là, bộ phận KTNB soạn thảo trình kế hoạch kiểm toán lên Ban giám hiệu, Hiệu trưởng phê duyệt. Kế hoạch KTNB phải đảm bảo được các yêu cầu về tính toàn diện và đầy đủ, trên cơ sở nhận diện rõ các hoạt động và bộ phận cần phải kiểm toán. Việc nhận diện các hoạt động và bộ phận cần kiểm toán được thực hiện trên cơ sở đánh giá trọng yếu và rủi ro, đánh giá môi trường kiểm soát, kết quả kiểm toán của các năm trước. Đồng thời, kế hoạch KTNB phải đảm bảo sự cân đối giữa chi phí và kết quả kiểm toán, phù hợp với nguồn  nhân lực thực hiện kiểm toán.
– Dựa trên cơ sở việc thực hiện kế hoạch kiểm toán, Bộ phận KTNB phải thực hiện trách nhiệm báo cáo cho Ban giám hiệu về thực tế kiểm soát nội bộ, tiến triển thực hiện kế hoạch kiểm toán, kết quả kiểm toán, các khuyến nghị do kiểm toán độc lập bên ngoài đưa ra, hoặc bất cứ vấn đề nào mà nhà quản lý đang quan tâm và yêu cầu báo cáo cùng mức độ ảnh hưởng (trọng yếu hoặc không trọng yếu) của chúng đến báo cáo tài chính.
– Nội dung chi tiết quy trình KTNB trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội cần hoàn thiện theo các nội dung cụ thể như sau:
Thực hiện thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định thích hợp của KTNB để khẳng định rằng, hệ thống KSNB vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã định trước. Việc thẩm tra để xác định rõ mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin: Bộ phận KTNB phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy không chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phương tiện sử dụng, để xác định đo đạc phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống thông tin này, là cơ sở để khẳng định các sổ sách và BCTC của trường ĐH chứa đựng thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích.

Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách các quy định, các kế hoạch và thủ tục hiện hành: Bộ phận KTNB phải kiểm tra các hệ thống, nhằm xác định hoạt động của các trường ĐH có đảm bảo tuân thủ các chính sách, thủ tục, luật pháp và các quy định, đánh giá tính hợp lý và sự ưu tiên của các chính sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ.

Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả của các nguồn lực: Bộ phận KTNB phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao đối với từng bộ phận trong trường ĐH. Việc thực hiện này liên quan đến các nhóm và các nhân viên đơn vị, ở đây bộ phận KTNB không chỉ quan tâm đến việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện công việc của họ một cách hiệu quả, tiết kiệm mà còn quan tâm đến việc thực hiện của họ có mang lại nhiều hiệu quả, lợi ích cho trường hay không? Do công việc rất đa dạng trong  một tổ chức nên để hoàn thành được nhiệm vụ trên. Đồng thời, phải kiểm tra các hoạt động hay các chương trình để xem xét kết quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, chương trình đó có được thực hiện theo kế hoạch đã định hay không.

Trong quá trình thực hiện KTNB phải phát hiện, dự báo các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của trường ĐH: Nội dung kiểm toán này góp phần ngăn chặn, xử lý các rủi ro. KTNB là tổ chức nội kiểm, am hiểu mọi đặc trưng quản lý và hoạt động của đơn vị, do đó có điều kiện và phải coi trọng nhiệm vụ phát hiện, ngăn ngừa và xử lý rủi ro là một trong những nhiệm vụ ưu tiên, nhằm đảm bảo sự ổn định phát triển bền vững.

Cần thực hiện liên kết các loại hình kiểm toán với nhau, điển hình là sự liên kết giữa kiểm toán hoạt động, kiểm toán tài chính. Các quyết định về kế hoạch, chương trình kiểm toán cần dựa trên cơ sở lấy các thủ tục và quá trình kiểm soát chủ yếu là trọng tâm. KTNB phải đánh giá về tính hữu hiệu của các thủ tục và quá trình kiểm soát chủ yếu. Nếu phát hiện ra các yếu điểm trong kiểm soát, cần phải xác định các biện pháp điều chỉnh thích hợp, đồng thời các bằng chứng này sẽ được sử dụng phục vụ cho kiểm toán tài chính. Chúng sẽ được xem xét, đánh giá khả năng ảnh hưởng trọng yếu hay không trọng yếu đến báo cáo tài chính được kiểm toán.
Bộ phận KTNB phải chịu trách nhiệm về các hoạt động theo dõi sau kiểm toán, bao gồm việc kiểm tra và giám sát quá trình các nhân viên và đơn vị trực thuộc trường thực hiện các kiến nghị kiểm toán. Lãnh đạo các đơn vị bộ phận có trách nhiệm đảm bảo quá trình thực hiện các kiến nghị kiểm toán và báo cáo kết quả thực hiện cho Bộ phận KTNB. Trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán, KTNB phải được thực hiện với sự thận trọng nghề nghiệp, trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực thực hành của KTNB.

Thứ ba, Hoàn thiện tổ chức, nhân sự KTNB    
Thiết lập bộ phận KTNB là xu hướng tất yếu và là nhu cầu khách quan tại mỗi đơn vị (xuất phát từ thực tế hoạt động của các DN trước những biến động của nền kinh tế hay sức ép từ các nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu DN cần phải có “hàng phòng thủ” chắc chắn…). Tuy nhiên, cần làm thế nào để phát huy hiệu quả của bộ phận này. Để làm được điều này, cần có sự thay đổi căn bản nhận thức từ cấp quản lý vĩ mô (Nhà nước) đến những nhà quản trị đơn vị. Cụ thể như sau:
Tùy theo quy mô và địa bàn hoạt động của các trường, KTNB tại các trường trên địa bàn TP Hà Nội có thể được tổ chức theo mô hình tập trung, phân tán hoặc kết hợp tập trung và phân tán nhưng tổ chức KTNB phải đảm bảo tính độc lập cần thiết, để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được giao. Cụ thể, KTNB đồng thời không tham gia điều hành và quản lý các hoạt động khác ngoài chức năng và nhiệm vụ kiểm toán đã được xác định, được quyền tiếp cận với Hiệu trưởng hoặc Hội đồng trường, tiếp cận mọi khu vực thuộc phạm vi sở hữu của trường, đồng thời có quyền tiếp cận và điều tra các thư từ, hồ sơ, chứng từ, tài khoản và các thông tin khác được lưu giữ tại trường với mục đích thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
Đồng thời, phải chú trọng công tác đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ thực hiện KTNB trong trường ĐH, lựa chọn và có nhiều cơ chế đãi ngộ hợp lý để thu hút được cán bộ có trình độ năng lực chuyên môn cao, đạo đức tốt thực hiện công tác KTNB nhằm đảm bảo tính khách quan, trung thực.

Thứ tư, Giải pháp khác
Ngoài các giải pháp trực tiếp hoàn thiện công tác tổ chức KTNB trong các trường ĐH tại địa bàn TP Hà Nội, còn có một số giải pháp phụ trợ khác, để thực  hiện đồng bộ và nâng cao hiệu quả triển khai các giải pháp đã nêu, Cụ thể là:
– Cần tăng cường tính tự chủ cho các trường ĐH nói chung và các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội nói riêng.
Trong điều kiện hiện nay, việc huy động nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục ĐH là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, quy mô NSNN còn nhỏ bé trong khi đổi mới nền giáo dục nước ta đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính khá lớn. Để huy động được nguồn lực tài chính cho giáo dục ĐH cần có cơ chế, chính sách quản lý tài chính thông thoáng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn,… nhằm đạt đến mục đích cơ bản nhất là nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục ĐH. Để tăng cường tính tự chủ cho các ĐH nói chung và các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội nói riêng, cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ các các chính sách giao quyền tự chủ cho các trường. Theo đó, các quyền tự chủ này cần được giao đồng bộ, bao gồm: Tự chủ nguồn nhân lực; Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên; Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nội dung chương trình và giáo trình học liệu; Tự chủ trong các chuẩn mực học thuật, như các tiêu chuẩn của văn bằng, các vấn đề liên quan đến kiểm tra và kiểm định chất lượng; Tự chủ trong nghiên cứu và xuất bản, giảng dạy tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính và tài chính, trong đó, đặc biệt là quyền tự chủ về tài chính. Bởi vì, các quyền tự chủ này liên quan chặt chẽ với nhau, nếu không có được quyền tự chủ trong mặt này thì quyền tự chủ ở các mặt khác không thể phát huy đầy đủ được. Ví dụ như, khi được giao tự chủ về tài chính thì cần được giao quyền chủ động trong tuyển sinh, xây dựng mức thu học phí và các khoản thu, …
– Các quy định pháp lý về quyền tự chủ cho các trường ĐH cần được thống nhất và thực hiện tăng quyền phân cấp đối với quản lý Nhà nước cho các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội
Các quy định pháp lý về quyền tự chủ cho các trường ĐH cần được thống nhất, nhất quán và cùng được cập nhật ở các văn bản quản lý khác nhau, để các trường ĐH này có được quyền tự chủ trọn vẹn và có cơ chế hỗ trợ thực hiện quyền tự chủ đó, tránh tình trạng tự chủ “nửa vời” hoặc trao quyền tự chủ, đồng thời vẫn “trói buộc” bởi cơ chế.
– Nhà nước nên thực hiện các quyền quản lý Nhà nước đối với các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội nên thực hiện ở các nội dung có tầm vĩ mô, có tính chiến lược, ở các khâu chỉ đạo, huy động, điều phối và giám sát, còn các khâu quản lý và tổ chức thực hiện nên giao cho các trường chủ động.
– Đa dạng hóa nguồn thu.

Nguồn thu của các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội hiện nay chủ yếu vẫn là từ học phí. Các nguồn thu khác như thu hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ tư vấn và chuyển giao khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nước,… vẫn còn rất hạn chế. Do đó, cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và cung ứng các dịch vụ để đa dạng hóa các nguồn thu, đáp ứng cho yêu cầu cân đối thu chi của trường. Đổi mới công tác quản lý tài chính ở các trường ĐH CL trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ gắn với việc nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu, phân bổ và sử dụng các nguồn thu hiệu quả, và đảm bảo sự minh bạch của các khoản thu – chi. Đồng thời, hoàn thiện bộ quy định quản lý nguồn thu. Quy định quản lý nguồn thu cần được thực hiện theo nguyên tắc minh bạch, trên cơ sở khai thác tối đa các nguồn lực, điều kiện hiện có của nhà trường và các hoạt động liên doanh liên kết. Đồng thời, nhà trường cần có cơ chế khuyến khích trong việc đa dạng hóa các nguồn thu từ hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật, tư vấn đào tạo và sản xuất kinh doanh.
Đối với các trường ĐH nói chung và các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội nói riêng, KTNB và triển khai KTNB còn là điều khá mới mẻ. Tuy nhiên, đứng trên giác độ là công cụ quản lý đem lại những lợi ích trong nhiều mặt như: Đảm bảo sự minh bạch trong tài chính, nâng cao hiệu quả hiệu năng hoạt động cũng như duy trì sự tuân thủ các quy định, quy chế trong nội bộ của trường ĐH thì việc triển khai KTNB có thể còn có một số rào cản nhất định nhưng việc triển khai KTNB tại các trường ĐH trên địa bàn TP Hà Nội là một yêu cầu cần thiết. Vì khi thực hiện đổi mới các ĐVSNCL, trong đó có các trường ĐH theo cơ chế DN thì KTNB với vai trò là một công cụ quản lý quan trọng, tác động tích cực tới việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội. Do đó, phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính, nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính và thực hiện tốt các mục tiêu của đơn vị./.

Tài liệu tham khảo

1. Anh, P.T.V (2016). “Để phát huy cơ chế tự chủ tài chính tại các trường ĐH CL” Tạp chí Tài chính, Kỳ 1, Tháng 3/2016.
2. GS.TS Nguyễn Đình Hương và các cộng sự (2000), KTNB hiện đại, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Tài chính, Hà Nội. (tài liệu biên dịch từ tiếng Anh của tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt).
3. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2010), Tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
4. PGS, TS Thịnh Văn Vinh và TS Phạm Tiến Hưng (2012), KTNB (sách chuyên khảo), Học viện Tài chính, Hà Nội.
5. Vũ Thùy Linh (2014), Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy KTNB trong các Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
6. Lê Thị Thu Hà (2011), Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
7. PGS. TS Thịnh Văn Vinh và PGS. TS Giang Thị Xuyến (2012), Giáo trình tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính, Học viện Tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội.
8. Vũ Thùy Linh (2014), Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy KTNB trong các Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
9. Victor Z.Brink và Herbert Witt (1941) về “KTNB hiện đại”.
10. IIA (2003), Research Opportunities in Internal Auditing.

Tin tức liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *