{Bài viết đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 – 1914), số 211, Tháng 4/2021 của Ths. Đoàn Quỳnh Phương – Đại học Ngân hàng TP.HCM và PGS.TS. Trịnh Quốc Trung – Đại học Kinh tế Luật TP.HCM}.
Việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam đã hình thành từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa thực sự phát triển do còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Bài viết này được thực hiện bằng phương pháp tổng hợp lý thuyết và các nghiên cứu trước, kết hợp với việc phân tích tình hình thực tế nhằm nêu lên những lợi ích của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, nêu ra những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển và giải pháp đẩy mạnh hoạt động phát hành trái phiếu cho doanh nghiệp tại Việt Nam.
Từ khóa: Huy động vốn, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
- Ghi nhận Tài sản cố định vô hình theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam
- GIẢI ĐÁP THẮC MẮC (Đăng trên Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 – 1914), số 211, Tháng 4/2021)
- Lớp ôn thi chứng chỉ KẾ TOÁN VIÊN 2021 của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Khoa học kế toán – VAA đã Khai giảng vào ngày 23/8/2021.
1. Giới thiệu
Vốn là cơ sở, là tiền đề cho một doanh nghiệp (DN) khởi sự kinh doanh. Với các DN tham gia lĩnh vực kinh doanh điều kiện phải có đủ số vốn pháp định. Vốn là điều kiện cần để DN duy trì và tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Có nhiều kênh huy động vốn cho DN, nhưng ở Việt Nam, tín dụng ngân hàng vẫn là kênh cấp vốn chủ yếu cho các DN. Thị trường chứng khoán đã đi vào vận hành từ năm 2000, nhiều DN đã huy động được nguồn vốn lớn thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Đặc biệt, kể từ năm 2019 đến nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) có sự sôi động đặc biệt, với nhiều thương vụ có giá trị lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng được phát hành thành công.
Tuy vậy, quy mô của thị trường TPDN Việt Nam vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Philippines, Indonesia, Singapore,… Điều này cho thấy các DN Việt Nam chưa thực sự khai thác tốt kênh huy động vốn bằng trái phiếu.
Trong bài viết, tác giả làm rõ những lợi ích của huy động vốn bằng phát hành trái phiếu so với các kênh huy động vốn khác, đồng thời phân tích thực trạng cũng như các khó khăn, vướng mắc liên quan đến phát hành trái phiếu của DN tại Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp giúp DN tại Việt Nam đẩy mạnh hoạt động phát hành trái phiếu, đáp ứng nguồn vốn phát triển sản xuất – kinh doanh nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
2. Những lợi ích của huy động vốn bằng phát hành TPDN
Theo K. Marx, dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn được khái quát hóa thành một phạm trù tư bản. Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này của K. Marx đã bao hàm đầy đủ về bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị, cho dù nó được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau như tài sản cố định, nhà cửa, nguyên vật liệu,… Vốn đem lại giá trị thặng dư, vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Từ khi khởi tạo một DN, điều kiện cần đầu tiên của DN đó là phải có vốn. Trong quá trình hoạt động, sự biến động của vốn cũng là cơ sở và dấu hiệu cho biết DN đang tồn tại và phát triển như thế nào. Để tiếp tục hoạt động và phát triển, DN không những phải duy trì số vốn bỏ ra ban đầu, mà còn phải tìm cách bổ sung nguồn vốn của mình từ nhiều nguồn khác nhau. Chính vì lẽ đó, huy động vốn được xem là ưu tiên hàng đầu của các DN trong quá trình vận hành và hoạt động của mình. Thực hiện tốt việc huy động vốn cũng đồng nghĩa với việc xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, gia tăng quy mô của DN, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong việc cạnh tranh với các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, các phương thức huy động vốn của các DN được đa dạng hóa. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài chính của mỗi quốc gia, loại hình của DN và các đặc điểm hoạt động kinh doanh cụ thể mà mỗi DN có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Trong đó, phát hành trái phiếu là một trong những phương thức huy động vốn dài hạn để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư, hay tài trợ cho những kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên bị thiếu hụt của DN.
So với các hình thức huy động vốn khác, huy động vốn bằng TPDN có những lợi ích vượt trội sau:
– Trái phiếu là công cụ cho phép DN huy động vốn vay trung và dài hạn với khối lượng lớn qua thị trường.
Theo Nghị định 163/2018/NĐ-CP, khi phát hành trái phiếu để huy động vốn, DN hoàn toàn nắm quyền chủ động trong quá trình huy động vốn như kỳ hạn vay, quy mô vốn huy động, cách thức phát hành… So với phương thức huy động vốn qua ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính khác, phát hành trái phiếu mang lại cho DN nhiều ưu điểm như không cần thế chấp tài sản và được chủ động trong việc sử dụng số tiền huy động mà không có sự giám sát của ngân hàng hay trung gian tài chính. Điều kiện và thủ tục vay vốn qua ngân hàng phức tạp, khoản vay có giới hạn nhất định, bởi lẽ các ngân hàng thương mại cũng là người đi vay để cho vay, vì thế NHTM chủ yếu cho các DN vay vốn ngắn hạn.
– Mức độ kiểm soát việc sử dụng tiền vay của người cho vay khi DN phát hành trái phiếu cũng thấp hơn so với tín dụng ngân hàng. Do vậy, khi DN có nhu cầu huy động vốn vay trung và dài hạn với quy mô lớn thì phát hành trái phiếu sẽ giúp DN chủ động, tiết kiệm thời gian, chi phí huy động hơn.
– Huy động vốn bằng trái phiếu giúp DN sử dụng đòn bẩy tài chính nhằm gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Có 2 lý do chính:
– Tạo ra lá chắn thuế cho DN: Lãi suất trái phiếu được coi là một khoản chi phí hợp lý và được trừ vào phần thu nhập chịu thuế của DN.
– Gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu do tác động đòn bẩy tài chính qua việc sử dụng vốn vay (trong đó có phát hành trái phiếu).
Tuy nhiên, việc đẩy mạnh phát hành trái phiếu huy động vốn cũng là hình thức sử dụng vốn vay nên tất yếu sẽ làm nảy sinh rủi ro tài chính. Vì vậy, nhà quản trị DN cần căn cứ vào đặc thù của ngành, lĩnh vực kinh doanh để đưa ra quyết định huy động vốn cho phù hợp (Bảng 1).
– Chủ sở hữu DN không bị chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát DN cho trái chủ.
Nhà đầu tư khi mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của DN, vì vậy trái chủ không có quyền biểu quyết và tham gia quản lý. Do đó, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn không ảnh hưởng đến quyền sở hữu và quyền quản lý và kiểm soát DN của các chủ sở hữu DN hiện hành.
– Giúp DN chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn linh hoạt.
Khi hoạt động kinh doanh có triển vọng tốt, DN có thể tăng huy động vốn vay từ phát hành trái phiếu nhằm mở rộng thị trường và gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Ngược lại, khi thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi, để thu hẹp quy mô kinh doanh, DN có thể chủ động giảm vốn bằng cách mua lại trái phiếu trước thời hạn (trong trường hợp DN phát hành loại trái phiếu có thể mua lại). Ngoài ra, trong trường hợp dòng tiền của DN đang khá dồi dào thì việc mua lại trái phiếu trước hạn nhằm giảm bớt áp lực thanh toán khi đến hạn cũng là giải pháp hợp lý nhằm tái cơ cấu nguồn vốn của DN. Vì vậy, trái phiếu được DN sử dụng linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn kinh doanh, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Tuy nhiên, với những lợi ích được phân tích như trên, huy động vốn bằng trái phiếu vẫn chưa được các DN khai thác tối ưu trên thị trường Việt Nam. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, khoảng 75% DN tại Việt Nam có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng, cho thấy các DN còn quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó, là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho DN nhưng thời gian qua, thị trường TPDN Việt Nam được đánh giá là tiềm năng nhưng chưa thực sự phát triển, chưa tạo điều kiện cho DN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn linh hoạt và hiệu quả.
3. Thực trạng thị trường TPDN giai đoạn 2016 – 2020
Trong giai đoạn 2016 – 2020, thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng, đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tăng trưởng về quy mô thị trường: cụ thể, tốc độ tăng trưởng bình quân thị trường TPDN trong giai đoạn này đạt 40%/năm, quy mô thị trường tăng từ 4,11% GDP năm 2011, lên 9,01% GDP vào cuối năm 2018, đến cuối tháng 09/năm 2020 đạt gần 13% GDP. Trong giai đoạn 2016 – 2020, khối lượng TPDN phát hành trên thị trường đạt trên 1.100 tỷ đồng. Riêng năm 2019, khối lượng phát hành đạt khoảng 332.852 tỷ đồng, trong đó phát hành riêng lẻ là chủ yếu. Tính đến cuối tháng 09/2020, tổng khối lượng phát hành TPDN tại thị trường trong nước đạt trên 320.000 tỷ đồng (tương đương 97% khối lượng phát hành cả năm 2019) (Hình 1).
Về sản phẩm trái phiếu phát hành trên thị trường: TPDN phát hành chủ yếu là trái phiếu thông thường, không chuyển đổi, không kèm chứng quyền; trên 40% khối lượng trái phiếu phát hành có tài sản đảm bảo. Lãi suất phát hành của các DN hầu hết sử dụng lãi suất thả nổi bằng lãi suất tiền gửi một năm của một hoặc một số NHTM trong nước cộng với biên độ. Mức lãi suất phát hành bình quân TPDN trong nước tương đương với lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến của các NHTM. Kỳ hạn phát hành đa dạng từ 1 năm đến trên 15 năm, mức kỳ hạn phát hành bình quân trong những năm gần đây đạt khoảng 4 năm.
Về nhà đầu tư TPDN: nhà đầu tư có tổ chức là nhà đầu tư chủ yếu mua TPDN riêng lẻ trên thị trường sơ cấp. Trong 9 tháng năm 2020, nhà đầu tư tổ chức mua 87,93% khối lượng TPDN phát hành, tỷ lệ mua TPDN trên thị trường sơ cấp của nhà đầu tư cá nhân tiếp tục giảm so với các tháng trước.
Xét về loại hình nhà đầu tư, công ty chứng khoán và các NHTM hiện là các nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường sơ cấp, chiếm trên 50% tổng khối lượng TPDN phát hành.
Về DN phát hành trái phiếu: trong năm 2019, các NHTM là nhà phát hành lớn nhất (chiếm 35,4% tổng khối lượng phát hành); trong 9 tháng năm 2020, DN bất động sản và NHTM là các nhà phát hành lớn nhất, chiếm lần lượt khoảng 33,46% và 26,97% tổng khối lượng TPDN phát hành riêng lẻ; các DN dịch vụ và sản xuất có xu hướng tăng huy động vốn trái phiếu so với các năm trước.
Hoàn thiện khung pháp lý: trong giai đoạn 2016 – 2020, các văn bản pháp lý như Quyết định số 191/QĐ-TTg ngày 14/08/2017 của Thủ tướng Chính phủ về lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị định số 88/2014/NĐ-CP, ngày 26/09/2014 về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm; Nghị định số 163/2018/NĐ-CP, ngày 04/12/2018 của Chính phủ quy định về phát hành TPDN; Nghị định số 81/2020/NĐ-CP ngày 9/7/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP để áp dụng ngay trong năm 2020. Nhằm nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện phát hành; hạn chế nhà đầu tư cá nhân mua TPDN riêng lẻ, hạn chế việc DN phát hành trái phiếu không gắn với việc sử dụng vốn. Ngoài ra, để xử lý tận gốc những tồn tại, hạn chế của thị trường TPDN, Luật Chứng khoán năm 2019 và Luật DN năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng: (i) Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được mua và giao dịch TPDN riêng lẻ như thông lệ quốc tế; (ii) Quy định TPDN ra công chúng phải có xếp hạng tín nhiệm, các trường hợp xếp hạng tín nhiệm và thời điểm áp dụng theo quy định của Chính phủ. Triển khai Luật Chứng khoán năm 2019 và Luật DN năm 2020, Bộ Tài chính đã và đang khẩn trương xây dựng các nghị định và thông tư hướng dẫn nhằm tạo ra khung khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động phát hành và giao dịch TPDN (Võ Lê Phương, 2020). Với khung pháp lý về phát hành TPDN liên tục được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện tạo điều kiện thuận lợi cho các DN huy động vốn trái phiếu, tăng tính công khai, minh bạch trong huy động vốn trái phiếu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
4. Khó khăn, hạn chế
Thị trường TPDN đang có những bước phát triển, tạo ra một nền tảng giao dịch thanh khoản hơn rất nhiều so với tín dụng, việc chuyển từ tín dụng truyền thống sang phát hành TPDN hay phát hành giấy tờ có giá, chính là một bước phát triển của thị trường này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình phát triển, thị trường vốn nói chung và thị trường TPDN nói riêng tại Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế, khiến thị trường phát triển chưa bền vững và chưa phát huy hết vai trò là kênh dẫn vốn của nền kinh tế.
Quy mô thị trường vẫn còn quá nhỏ so với kênh tín dụng ngân hàng. Tại Việt Nam, thị trường vốn vẫn phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ tín dụng cho khu vực tư nhân năm 2016 tại Việt Nam đạt 123,81% GDP, trong khi đó, tỷ lệ giá trị TPDN/GDP lại là một con số rất nhỏ, chỉ 2,5% (Bảng 2). Điều này cho thấy, dòng vốn đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào tín dụng ngân hàng, giá trị vốn huy động thành công từ TPDN thấp hơn nhiều so với kênh tín dụng ngân hàng (Hoàng Xuân Hoà và Nguyễn Quang Huy, 2018).
Việc quá phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng như nền tài chính của nước ta hiện nay làm cho nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động bên ngoài, đặc biệt là những cuộc khủng hoảng. Đây là bài học rút ra từ sau các cuộc khủng hoảng như khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997, khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007 – 2008. Đặt ra yêu cầu bức thiết cho Việt Nam là cần phải tái cấu trúc hệ thống tài chính, trong đó đa dạng hoá các nguồn tài trợ vốn, cụ thể là đẩy mạnh thị trường trái phiếu trở thành một nhu cầu tất yếu.
Cấu trúc thị trường trái phiếu mất cân bằng: Thông thường, tại các quốc gia có thị trường tài chính tương đối phát triển thì tỷ trọng dư nợ trái phiếu trên GDP của TPDN tương đối cao, có thể tương đương với TPCP, thậm chí cao hơn trái phiếu CP trong trường hợp của Hàn Quốc (dư nợ TPDN trên GDP là 74,3% trong khi dư nợ trái phiếu Chính phủ trên GDP chỉ đạt 53,2%). Tuy nhiên, tại Việt Nam, phân khúc trái phiếu chính phủ nắm phần chủ yếu trên thị trường, với tỷ trọng trong tổng dư nợ thị trường vượt trội so với TPDN. TPDN không chỉ chiếm một lượng rất nhỏ, không đáng kể, mà chủ yếu là của các DN có quy mô lớn và uy tín. Quy mô thị trường TPDN mới chỉ chiếm 1,5% so với GDP.
Do đó, phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam thông qua phát triển thị trường TPDN có ý nghĩa hết sức quan trọng. Với mục tiêu xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPDN nói riêng một cách bền vững, đảm bảo an toàn hệ thống và từng bước tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế để trở thành một kênh huy động vốn an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế. Ngày 01/02/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 261/QĐ-BTC, phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020 và lộ trình phát triển thị trường trái phiếu, giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 191/QĐ-TTg, ngày 14/08/2017 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó, tăng tỷ trọng dư nợ trái phiếu/GDP từ 18% (năm 2011) lên khoảng 38% GDP (năm 2020), trong đó dư nợ TPDN đạt khoảng 7% GDP.
Một tín hiệu vui cho thấy, thị trường TPDN hiện đang có tốc độ tăng trưởng nhanh, từng bước trở thành kênh huy động vốn quan trọng của các DN và góp phần giảm áp lực huy động vốn cho kênh tín dụng ngân hàng. Tính đến cuối tháng 09/2020, quy mô thị trường TPDN đạt khoảng 13% GDP năm 2019 (tăng 2,15% so với mức 10,85% GDP của thời điểm cuối năm 2019), vượt mục tiêu đề ra trong năm 2020 tại lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Thị trường TPDN còn non trẻ. So với quá trình phát triển khoảng gần 70 năm của hệ thống ngân hàng thì thị trường TPDN vẫn còn non trẻ, khi thực sự bắt đầu hình thành từ năm 2000. Nếu như năm 2000, hầu hết vốn của các DN được vay từ hệ thống ngân hàng với dư nợ tín dụng là 40% GDP, giá trị vốn hoá của thị trường cổ phiếu là 0,28% GDP, thì đến năm 2017, dư nợ tín dụng đã trên 130,7% so với GDP và giá trị vốn hoá của thị trường cổ phiếu là trên 70% GDP. Bên cạnh đó, tổng dư nợ toàn thị trường trái phiếu năm 2017 đã đạt 37,45% GDP (Hoàng Xuân Hoà và Nguyễn Quang Huy, 2018). Chỉ số VN-Index tăng hơn 45% – theo số liệu mà hãng tin Bloomberg đưa ra, Việt Nam – một thị trường chứng khoán sơ khai (frontier market), là thị trường có mức tăng điểm mạnh nhất tính theo tỷ lệ phần trăm tại khu vực châu Á, trong năm 2017. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, thị trường vốn, đặc biệt là thị trường TPDN Việt Nam vẫn còn rất non trẻ và đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Đa phần các DN chưa nhận thức rõ ràng về thị trường vốn nên khi có nhu cầu vay vốn để sản xuất – kinh doanh thì DN sẽ nghĩ ngay đến kênh tín dụng ngân hàng. Trong khi đó, cơ chế chính sách chưa thực sự cân bằng giữa chính sách huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và kênh tín dụng ngân hàng (Hình 2).
DN có tâm lý e ngại và chưa nhận thức đúng đắn về việc phát hành TPDN. Lý do là, với chính sách phát hành TPDN, DN phải đáp ứng điều kiện chặt chẽ và tuân thủ quy trình thủ tục theo chuẩn mực thị trường để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư. Các DN có tâm lý e ngại khi huy động vốn trái phiếu, nhất là các DN vừa và nhỏ. Nguyên nhân là do thói quen và nhận thức của DN, cùng với việc quy trình, thủ tục vay vốn ngân hàng đơn giản hơn, chi phí có thể thấp hơn và đặc biệt là không phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin đối với nhà đầu tư mua trái phiếu.
Hệ thống thông tin tập trung về TPDN chưa hoạt động hiệu quả. Hiện nay, chuyên trang thông tin về TPDN mới được hình thành và cần tiếp tục cải thiện trong thời gian tới, để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận và chưa hình thành thị trường thứ cấp để tăng tính thanh khoản cho thị trường.
Thị trường TPDN Việt Nam thiếu tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín: Khi mua TPDN, các nhà đầu tư hy vọng TPDN sẽ được đánh giá tín nhiệm và niêm yết trên sàn chứng khoán để tăng tính thanh khoản. Việc Việt Nam hiện nay chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín và cũng chưa có tổ chức định giá trái phiếu cho thấy cơ sở hạ tầng của thị trường còn thiếu sót, là một nguyên nhân khiến cho kênh huy động vốn qua TPDN chưa thực sự phát triển mạnh mẽ.
5. Một số giải pháp đề xuất
Về phía DN:
Nâng cao nhận thức cho DN về việc phát hành trái phiếu huy động vốn. Phát hành trái phiếu không chỉ giúp DN huy động được nguồn vốn trung – dài hạn hiệu quả mà còn là chứng nhận cho năng lực cạnh tranh của mình. Nếu như ở phần trên đã nêu, việc phát hành trái phiếu làm DN e ngại về phần quy trình, thủ tục phức tạp và phải công bố thông tin thì thực tế đã chứng minh nhờ vào áp lực do việc phát hành trái phiếu, DN thực hiện công khai, minh bạch thông tin hoạt động, tổ chức kiểm toán định kỳ lại thúc đẩy DN hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.
Thông qua việc phát hành trái phiếu, DN có thể tìm được những nhà đầu tư quốc tế lớn, từ đó giúp DN tăng sức mạnh thông qua tiếp thu kinh nghiệm quản lý, thực hiện quản trị kinh doanh theo chuẩn mực hiện đại và thông lệ quốc tế. Cùng với đó, các DN cũng huy động được số vốn lớn với chi phí thấp cho đầu tư phát triển.
Chuẩn bị kỹ càng các yếu tố quan trọng khi DN chuẩn bị phát hành trái phiếu. Không chỉ đối với thị trường tài chính trong nước, trên thị trường tài chính quốc tế hiện nay đang có lượng tiền rất lớn chưa đầu tư vào đâu, do vậy sẽ không có khó khăn gì khi các DN có ý định phát hành trái phiếu hoặc thậm chí, muốn bán trái phiếu trên thị trường quốc tế. Vì vậy, DN cần áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất, để có thể đảm bảo nguồn cung vốn của mình thông qua việc phát hành trái phiếu. Yếu tố minh bạch không chỉ quan trọng đối với bản thân DN phát hành trái phiếu, mà còn là điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường TPDN. Chính vì vậy, nâng cao tính minh bạch được xem là yếu tố quan trọng nhất khi DN phát hành trái phiếu: Thứ nhất, đảm bảo DN của mình đạt chuẩn mực trong hệ thống kế toán; Thứ hai, DN cần lưu giữ đầy đủ hồ sơ về hoạt động kinh doanh của mình; Thứ ba, cải thiện sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động quản trị điều hành DN. Thực tế chứng minh, DN càng minh bạch, hiệu quả hoạt động càng tốt hơn. Thời gian thực hiện việc cải thiện và mức độ cải thiện tính minh bạch như thế nào xuất phát từ chính nhu cầu và yêu cầu của các nhà đầu tư và các cổ đông.
Cuối cùng, DN chuẩn bị để có được các mức xếp hạng từ các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Nếu đã có mức xếp hạng tín nhiệm, DN sẽ nhận được sự quan tâm từ nhiều nhà đầu tư hơn bởi các nhà đầu tư có thông tin và lòng tin về DN này thông qua các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín. Khi đã có nhiều nhà đầu tư hơn thì sự cạnh tranh mua sẽ làm lãi suất phát hành trái phiếu của DN được giảm đi.
Về phía cơ quan quản lý:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm tăng cường tính minh bạch của thị trường. Trong năm 2021, Bộ Tài chính cần phối hợp với các bộ, ngành triển khai các giải pháp phát triển thị trường TPDN theo khuôn khổ pháp lý đối với việc phát hành TPDN riêng lẻ đã được ban hành đầy đủ. Đồng bộ từ Luật Chứng khoán, Luật DN, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP và Thông tư số 122/2020/TT-BTC sẽ tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động phát hành TPDN của DN.
Nâng cao tính minh bạch của thị trường TPDN thông qua việc phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường. Cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cấp chuyên trang thông tin về TPDN tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, nghiên cứu tổ chức thị trường giao dịch đối với TPDN phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Phát triển nguồn cung và sức cầu ổn định trên thị trường TPDN, bằng việc thu hút và khuyến khích nhiều nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp. Ngoài việc khuyến khích và tạo thuận lợi cho DN phát hành trái phiếu, các cơ quan quản lý cũng cần có những chính sách mở rộng cơ sở cho nhà đầu tư, đặc biệt ưu tiên cho những nhà đầu tư dài hạn và chuyên nghiệp. Hiện nay, cơ sở nhà đầu tư trên thị trường TPDN chưa đa dạng, thiếu vắng các nhà đầu tư dài hạn, các nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư mục tiêu, quỹ hưu trí nên nhu cầu đầu tư trên thị trường thiếu bền vững. Đây được xem là một thách thức không nhỏ đối với thị trường TPDN Việt Nam, bởi các nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp là một trong các yếu tố để thúc đẩy phát triển thị trường.
Không chỉ cần thu hút các nhà đầu tư cá nhân, những nhà đầu tư tổ chức thường được trang bị đầy đủ kiến thức, am hiểu quy định, có nguồn vốn dồi dào và nhiều kinh nghiệm hơn trong việc kinh doanh các loại chứng khoán. Mặt khác, các nhà đầu tư tổ chức thường tham gia vào thị trường với giá trị lớn hơn nhiều so với nhà đầu tư cá nhân, điều đó sẽ góp phần tăng tính thanh khoản cho thị trường.
Kết luận
Kinh nghiệm thành công của các DN khi phát hành trái phiếu có những điểm chính sau: xây dựng chiến lược kinh doanh đúng đắn; tập trung vào ngành cốt lõi; sử dụng vốn (không tập trung vốn vay ngân hàng, đa dạng hóa mọi nguồn vốn) và quan trọng là phải thực hiện quản trị DN theo chuẩn mực hiện đại và thông lệ quốc tế; công khai và minh bạch thông tin, hướng đến báo cáo phát triển bền vững để tạo lợi thế cạnh tranh cho DN, cũng như sự thuyết phục với nhà đầu tư khi hội nhập với thị trường quốc tế. Các DN Việt Nam đã, đang khai thác và biết khai thác nguồn vốn tiềm năng (nhanh, rẻ, đủ và dài hạn) trên thị trường tài chính nói chung và thị trường TPDN nói riêng, họ sẽ trở thành những đơn vị kinh doanh chủ động, vừa quảng bá được thương hiệu qua các nguyên tắc công khai, minh bạch của thị trường chứng khoán, vừa không bị lệ thuộc vào vốn vay ngân hàng.
Đồng thời, từ những định hướng và các giải pháp đồng bộ trên, thời gian tới, thị trường TPDN sẽ phát triển theo hướng ngày càng minh bạch, hiệu quả, bền vững. Hỗ trợ tích cực cho nhu cầu huy động vốn của các DN để mở rộng sản xuất – kinh doanh; tạo kênh đầu tư tiềm năng cho các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường vốn nói chung.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Chứng khoán 2006, ngày 0101/2007;
2. Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII;
3. Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 191/QĐ-TTg, ngày 14/08/2017 của Thủ tướng Chính phủ);
4. Đề án cơ cấu lại thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 (Quyết định số 242/QĐ-TTg, ngày 28/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ);
5. Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh (đồng chủ biên), 2013, Giáo trình Tài chính DN, NXB Tài chính, Hà Nội.
6. Đỗ Doãn, 2020, Thúc đẩy thị trường TPDN phát triển, < http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2020-11-11/thuc-day-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-phat-trien-95015.aspx> , truy cập ngày 15/03/2021.
7. Hoàng Xuân Hoà và Nguyễn Quang Huy, 2018, “Phát triển thị trường vốn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập”, <http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/phat-trien-thi-truong-von-viet-nam-trong-nen-kinh-te-thi-truong-hien-dai-va-hoi-nhap-135547.html>, xem 030/05/2019.
8. Lưu Thị Hương, Vũ Duy Hào (đồng chủ biên), 2013, Tài chính DN, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
9. Khánh Giang, Hoàng Xuân, 2021, Phát triển bền vững thị trường trái phiếu (01/03/2021), < https://nhandan.com.vn/phan-tich/phat-trien-ben-vung-thi-truong-trai-phieu-637002>, ngày truy cập 12/03/2021
10. Võ Lê Phương, 2020, Tạo điều kiện cho DN huy động vốn qua thị trường trái phiếu (25/12/2020), < https://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/tao-dieu-kien-cho-doanh-nghiep-huy-dong-von-qua-thi-truong-trai-phieu-330841.html> , ngày truy cập 12/03/2021.
11. Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM.
12. Trung tâm phân tích Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI (SSI Research).